Diễn đàn của lớp CQ47/01.02
Để có thể đọc bài viết và bình luận, xin mời đăng nhập vào diễn đàn
Diễn đàn của lớp CQ47/01.02
Để có thể đọc bài viết và bình luận, xin mời đăng nhập vào diễn đàn
Diễn đàn của lớp CQ47/01.02
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn của lớp CQ47/01.02

K47/01.02-HVTC. We are one !!!
 
Trang ChínhTrang Chính  Nghe nhạc onlineNghe nhạc online  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Mở chức năng Quick Reply, từ đây việc comment sẽ thuận tiện hơn
Mọi người chú ý đọc hướng dẫn ở đây

 

 "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống

Go down 
Tác giảThông điệp
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:38 pm

Chương 1: Mục đích ngầm của nhà môi giới chứng khoán

Linda Dedini, cô con gái 30 tuổi của một trong những giám đốc điều hành hưởng lương cao nhất ở Mỹ, không muốn nói nhiều về bố mình. Cô gắn bó với ông về tình cảm nhưng hoàn toàn độc lập về tài chính. Cô yêu quí ông nhưng không hề muốn một chút tiền nào của ông.

Cô và chồng, cũng là một người có tính độc lập, muốn chứng minh rằng họ có thể giàu có mà không cần một xu giúp đỡ của bố. Khác với hầu hết những người bạn, cô tránh không nói với ai rằng bố cô là một CEO nổi tiếng. Thế giới của cô là dạy vật lý tại một trường cấp ba ở Arlington, Virginia và cô muốn cuộc sống của cô cứ theo hướng đó.

Cô thậm chí không muốn nhận những lời khuyên đầu tư của bố. Thay vào đó, hầu hết mọi quyết định tài chính của cô dựa vào một trong những hãng môi giới chứng khoán lớn nhất nước Mỹ: Công ty Harris & John. Công ty này có trên 5 triệu khách hàng và là một trong những công ty được kính trọng nhất ở Phố Wall. Cô cảm thấy rằng mình có thể tin tưởng ở họ.

Người nhân viên của công ty phụ trách tài khoản của cô, James Dubois, đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong suốt những năm 90. Vì thế, cô cũng tin tưởng anh.

Một buổi sáng Thứ Hai, cô gọi điện cho anh xin lời khuyên. Cô mới có một khoảng tiền 160 nghìn đô la sẵn sàng dùng để đầu tư. Đây là khoản tiền cô kiếm được từ việc bán căn hộ thứ hai và cô hi vọng sẽ biến số tiền này thành một ngân quĩ lớn đủ để trang trải chi tiêu khi nghỉ hưu và và hầu hết tiền học phí cho lũ trẻ một cách thoải mái.

“Tôi có một cổ phiếu tuyệt diệu cho cô”, nhân viên chứng khoán tuyên bố một cách phấn khích. “Nó đã được bán với giá cao tới 64 đô la, nhưng giờ thì giá đã giảm xuống 40 đô la. Tin tốt lành là cổ phiếu này có thể đem lại lợi nhuận 2 đô la trên 1 cổ phiếu trong năm nay. Với giá 40 đô la, nó chỉ được bán ở giá bằng 20 lần lợi nhuận”.

“Nó tốt ư?”, cô hỏi.

“Tốt? Cô không đùa đấy chứ? Đó là một món hời! Hầu hết công ty trong ngành này bán cổ phiếu ở mức giá gấp 30 hay 40 lần lợi nhuận trên cổ phiếu. Vì thế, cổ phiếu công ty này có giá trị thật gấp 30 hay 40 lần khoản lợi nhuận 2 đô la trên cổ phiếu. Nhân chúng lên và cô có gì nào?”

“60 hay 80 đô la một cổ phiếu?”

“Chính xác. Tôi sẽ nói nó có giá 80 đô la. Nhưng cô sẽ chỉ phải trả có 40 đô la! Đó là lý do chính tại sao các chuyên gia phân tích của chúng tôi đánh giá cổ phiểu này là “nên mua”. Cô có xem chương trình CNBC sáng nay không? Không? Dở quá. Cô đã có thể thấy chuyên gia phân tích của chúng tôi nói về nó chỉ vài tiếng trước thôi”.

“Cổ phiếu đó là cổ phiếu nào?”

“United Comminications and Business Systems – UCBS. Tôi chắc rằng cô đã từng nghe tới nó.”

Cô gật đầu chậm rãi. Sau khi gạt bỏ những lo ngại cô quyết định đầu tư 80 nghìn đô la vào công ty này. Nhân viên môi giới mua cho cô 2000 cổ phiếu với giá 40 đô và cô sẽ đợi những cổ phiếu này lên giá.

Cổ phiếu này đã diến biến theo chiều ngược lại. Có tin đồn rằng UCBS đã phóng đại lợi nhuận. Chi tiết thì không rõ lắm, nhưng theo một vài nguồn tin (trong số đó có những nguồn tin dường như đáng tin cậy) thì thay vì kiếm được 2 đô la trên cổ phiếu, công ty thực tế chỉ kiếm được 1 đô la.

Bởi vì hầu hết các nhà đầu tư vẫn đánh giá giá cổ phiếu của công ty ở mức 20 lần lợi nhuận, nếu như những tin đồn là sự thật, thì cổ phiếu này sẽ chỉ có giá 20 x 1 đô la, hay 20 đô la. Gần như lập tức, các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu của họ khi giá rơi về mức 20 đô la. Trong vòng có vài ngày, cô đã mất gần nửa số tiền đầu tư.

Như cứa thêm vào nỗi đau, vài tháng sau, người ta phát hiện ra rằng một số những nhận xét tốt đẹp mà phố Wall đánh giá về cổ phiếu này thật ra là do công ty mua và trả tiền. Những nhà phân tích đã được trả những khoản tiền lớn để đẩy giá cổ phiếu lên và họ đã đánh bóng triển vọng vốn đã được phóng đại của công ty. Khi tin này nổ ra, một số nhà phân tích đã giáng cấp cổ phiếu của công ty xuống mức “giữ”, mà thực ra là một ký hiệu của Phố Wall thay cho “bán”. Giá cổ phiếu này lập tức giảm xuống một nửa lần thứ hai còn 10 đô la. Từ khoản đầu tư 80 nghìn đô, giờ đây cô chỉ còn vẻn vẹn có 20 nghìn.

Khi cô đang suy ngẫm về tình trạng khó khăn của mình, một buổi chiều, tiếng chuông điện thoại reo cắt ngang dòng suy nghĩ. Lại là Dubois. Trong khi cô hoàn toàn choáng váng, anh gợi ý cô nên mua thêm 2000 cổ phiếu nữa của chính công ty này, cái cổ phiếu đang làm cho danh mục đầu tư của cô rơi tự do.

“Xem này”, anh nói. “Tất cả những tin đồn xấu mà cô đã nghe về công ty chính là cái may trong cái rủi. Chúng làm cho giá cổ phiếu giảm xuống dưới giá trị thực của công ty. Điều mà cô cần làm lúc này là bỏ ra thêm một chút tiền và cô có thể cắt giảm chi phí bình quân một cách ngoạn mục. Thay vì mua 2000 cổ phiếu ở giá 40 đô, giờ đây cô có thể có 2000 cổ phiếu với giá chỉ 10 đô, và với tổng thể 4000 cổ phiếu với giá bình quân có 25 đô. Đó chính là cái gọi là ‘bình quân giá’”.

Cô cảm thấy do dự. Cô nói với anh rằng thực sự cô đang nghĩ đến chuyện bán.

“Ồ không!”, anh đáp lại trong hơi thở gấp gáp. “Giờ chính là thời điểm tồi nhất để làm việc đó. Thay vào đó cô nên mua thêm! Và nếu như cô không có đủ can đảm để mua thêm, thì vì Chúa, hãy giữ lại cổ phiếu!”.

Dubois ngừng lại đôi chút để thăm dò phản ứng của cô. Nhưng cô vẫn im lặng. “Hãy nhớ qui luật vàng để thắng trên thị trường chứng khoán!”, anh thêm vào bằng giọng nói có vẻ chuyên nghiệp. “Luôn đầu tư dài hạn. Thị trường luôn cho lợi nhuận cao hơn các hình thức đầu tư khác trong dài hạn. Cuối cùng nó cũng sẽ trở lại”.

Cô đã nghe câu nói này nhiều lần truớc đây từ hầu hết mọi người – bạn bè, các chuyên gia hoạch định tài chính, chương trình TV và các nhà bình luận độc lập. Nó dường như được bảo đảm với những bằng chứng lịch sử trong hàng thập kỷ. Cô chưa từng nghe ai nói điều ngược lại và vì thế, cô chấp nhận nó không thắc mắc.

Trong những ngày tiếp theo, trong cô luôn giằng co về quyết định này, và mỗi lần cô nói chuyện với Dubois, anh đều đưa cho cô một câu châm ngôn về đầu tư mới để thuyết phục cô hãy kiên nhẫn và hãy chờ đợi.

Nhà môi giới có một mục đích ngầm: Anh muốn giữ cô khách hàng này và kinh nghiệm cho anh biết rằng một khi khách hàng đã bán tháo cổ phiếu, họ thường từ bỏ luôn thị trường chứng khoán và tệ hơn là đóng tài khoản của họ. Suy nghĩ như vậy, anh quyết tâm ngăn cản cô bán cổ phiếu bằng mọi cách.

Thủ thuật đầu tiên mà anh vận dụng là luận điệu “lỗ trên giấy” (paper- loss). “Đừng lo về khoản lỗ”, anh tuyên bố. “Chúng chỉ là lỗ trên giấy thôi. Nếu cô bán, cô sẽ biến nó thành sự thật”. Anh không hề nói rằng thực ra chẳng có gì khác biệt giữa một khoản lỗ trên giấy và khoản lỗ đã hiện thực. Anh cũng chẳng tiết lộ rằng Ủy ban chứng khoán (SEC) thậm chí yêu cầu những nhà môi giới phải định giá cổ phiếu mà họ nắm giữ trong danh mục đầu tư theo giá hiện tại để coi những khoản lỗ là thật dù họ đã bán cổ phiếu hay chưa. Anh thừa hiểu rằng, dù thế nào thì lỗ vẫn là lỗ. Đó là một sự thật.

Khi luận điệu “lỗ trên giấy” không còn tỏ ra hiệu quả, anh cố gắng lập luận “đừng ngu ngốc mà bán khi giá đang ở đáy”. Anh thậm chí còn sử dụng câu nói mà ông giám đốc kinh doanh cũ đã nói với anh “Chúng ta đã ở gần, rất gần đáy. Thậm chí chúng ta đã ở đáy rồi. Nếu cô bán bây giờ, chỉ ba tháng sau thôi cô sẽ phải trả giá. Đừng ngu ngốc thế chứ”.

Sự thật thì nhà môi giới hay bất kỳ ai trong công ty không hề biết đáy nằm ở đâu. Cùng lúc, anh hiểu rõ qua nhiều năm kinh nghiệm rằng cổ phiếu sẽ không chạm đáy chỉ đơn giản vì nó có vẻ rẻ. Trên thực tế, với danh mục đầu tư cá nhân của anh, nhà môi giới đã quyết định rằng anh không bao giờ mò mẫm đầu tư với cổ phiểu đang ở đáy.

Như thường xảy ra, vào giữa tuần, thị trường đột nhiên hồi phục mạnh mẽ và Linda Dedini cho rằng đây chính là cơ hội để cô thoát khỏi tình cảnh này. Cô gọi điện cho Dubois để kết thúc mọi thứ nhưng anh lập tức phản bác lại với lập luận về một sự “hồi phục lớn”. “Hãy nhìn sự hồi phục của thị trường”, anh nói, miêu tả chi tiết những diễn biến của chỉ số Dow Jones. “Cổ phiếu UCBS của cô đang bắt đầu trở lại. Cô không phải rút ra đấy chứ? Cô muốn rút? Tôi không tin! Sau khi chờ đợi kiên trì như thế, cô lại muốn bỏ chạy bây giờ ư, khi mà mọi thứ đang bắt đầu thay đổi theo hướng có lợi cho cô?”.

Nhà môi giới giở con bài cuối cùng trong những thủ thuật của mình là kích động lòng yêu nước. “Cô có biết,” anh hỏi, “điều gì sẽ xảy ra nếu ai cũng làm như cô không? Đó chính là khi thị trường suy sụp. Nhưng nếu như cô và hàng triệu nhà đầu tư khác chỉ cần có thêm một chút niềm tin vào nền kinh tế của chúng ta, vào đất nước chúng ta – thì thị trường sẽ hồi phục và mọi người đều kiếm được lợi”.

Những tháng sau đó, cô sẽ nhận ra rằng có nhiều khoản đầu tư khác mà cô có thể kiếm lợi khi thị trường đi xuống và sau một vài thất bại ban đầu, cô sẽ mài dũa được kĩ năng để kiếm lợi lớn khi thị trường suy sụp. Còn bây giờ, tuy vây, cô chỉ biết có ba lựa chọn: mua, bán hoặc giữ lại. Và cô quyết định giữ lại.

Nhà môi giới không hề biết rằng cô có những lý do riêng để làm việc đó: Cha cô chính là CEO của công ty này.
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:39 pm

Chương 2: Bong Bóng

Paul E. Johnston, CEO của công ty UCBS biết rất ít về cách kiếm tiền khi thị trường suy thoái. Thực tế, nhiều tháng trước đây, lúc ông ngây người nhìn về phố Wall ở phía xa, trong đầu ông chẳng có khái niệm nào về lợi nhuận khi thị trường suy thoái.

UCBS, một công ty chỉ có một nhà máy một thập kỷ trước, nay đã là biến thành một tổ hợp lớn với vô số các vụ mua lại và nổi lên là một trong những công ty công nghệ chế tạo lớn nhất nước Mỹ.

Thách thức khẩn cấp nhất của ông hiện nay là: làm thế nào để huy động một số tiền lớn.

Không có thêm tiền, ông chẳng thể tạo ra một buớc nhảy vọt trong công nghệ sợi quang. Ông chẳng thể mua hàng tá những công ty mới nổi lên và đang dẫn đầu về đổi mới công nghệ trong ngành ở nước Mỹ và nước ngoài. Ông có thể sẽ không thể tự bảo vệ công ty khỏi các tập đoàn khổng lồ toàn cầu đang lăm le muốn mua đứt. Tồi tệ nhất là ông có thể không có khả năng trả những khoản nợ đang đến hạn – khoản tiền mà công ty đã dùng trong các vụ mua lại.

Ông cần bao nhiêu tiền? Lần thứ ba trong vòng 24 giờ qua, ông suy nghĩ về danh sách các công ty mà ông đang muốn mua và tính toán ra con số khoảng 4,3 tỷ đô la, một số tiền lớn chưa từng được chi ra trong lịch sử công ty. Tham vọng ư? Đúng. Không thể ư? Không. Các gã khổng lồ viễn thông và công nghệ cao khác đều đang làm được, tại sao ông không thể?

Tuy vậy sẽ chẳng có ngân hàng hay nhà đầu tư nào đủ lớn để cho Johnston vay số lượng tiền mà ông đang muốn có. Ngay cả một công xóc xi um các ngân hàng quốc tế lớn nhất cũng sẽ không làm điều đó. Chỉ có một nguồn để kiếm tiền: thị trường chứng khoán.

Vào những năm 1990, thị trường chứng khoán đã biến đổi nhanh chóng. Đầu tiên, để huy động một khoản tiền lớn thì phải là một công ty có tiếng tăm trong danh sách Top Fortune 100 với cổ phiếu được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán NewYork (NYSE).

Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết mọi công ty có dự án công nghệ cao hấp dẫn đều có thể huy động một số tiền lớn bằng cách niêm yết cổ phiếu trên một sở giao dịch chứng khoán mới hơn, Sở giao dịch chứng khoán Nasdaq, nơi hàng triệu nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang đầu tư hàng tỷ đô la. Chỉ trong có 60 tháng từ tháng 1 năm 1995 đến tháng 12 năm 2000, các nhà đầu tư đã đổ 993 triệu đô la vào WorldCom và 258 triệu đô la vào XO Communications. Họ vồ lấy cổ phiếu của Globalstar Telecommunications, Luminent, Prodigy Communications, Internet Capital Group và nhiều ngôi sao tiếng tăm khác lúc đó. Hơn 2809 công ty mới được thành lập. Tổng cộng, 177 tỷ đô la đã được huy động, trong đó 103 tỷ đô la đã huy động trong chỉ 2 năm 1999 và 2000.

Johnston đã quá quen với sự điên rồ trên Sở giao dịch Nasdaq. Điều đó giải thích vì sao nhiều năm trước ông đã là một trong những người tiên phong gia nhập câu lạc bộ (Nasdaq) – niêm yết cổ phiếu của công ty trên Sở giao dịch Nasdaq và tại sao ông thường xuyên qua lại phố Wall để huy động những khoản vốn ngày càng lớn.

Dường như thế là chưa đủ, ông cũng thường vay tiền đến mức tối đa. Cho tới cuối năm 1999, với mỗi đô la vốn chủ sở hữu, UCBS nợ 5 đô la. Tệ hơn, với mỗi đô la nợ đến hạn phải trả trong vòng một năm, công ty chỉ có 8 cent tiền mặt trong ngân hàng. Đó chính là một lý do không nói ra mà ông đang muốn huy động 4.3 tỷ đô la đến tuyệt vọng.

Ông biết có hai công ty đã từng huy động được số tiền lớn như vậy: Công ty UPS đã bán 109 triệu cổ phiếu mới cho các nhà đầu tư vào tháng 11 năm 1999 để thu về 5,4 tỷ đô la và Công ty Conoco đã bán 191 triệu cổ phiếu mới vào tháng 10 năm 1998 để thu về 4,4 tỷ đô la.

Ngài giám đốc điều hành biết điều đó. Ông cũng biết rằn để huy động số vốn lớn như thế, ông không thể chỉ tới phố Wall với cái mũ trong tay và vài con số yếu ớt chẳng có gì nổi bật để khoe. Ông cần phải có một câu chuyện cực kỳ mời gọi. Ông phải trình bày những câu chuyện về sự tăng trưởng doanh thu kỳ diệu, những dự báo lợi nhuận hấp dẫn, những kỳ công công nghệ tuyệt diệu trong tương lai.

Ngài giám đốc cũng quá quen thuộc với đối tượng khán giả trong những buổi trình diễn của ông. Đó không phải là hàng ngàn nhà đầu tư sẽ đổ tiền tiết kiệm cả đời và quĩ lương hưu của họ vào cổ phiếu của công ty. Đó cũng không phải là hàng trăm giám đốc quĩ tương hỗ sẽ lao vào cổ phiếu như một đàn gia súc.

Không. Thực tế là ông cố ý không nói thường xuyên với những người đó, không cho phép sự sợ hãi hay lòng tham của họ che mờ tầm nhìn về tương lai hay làm ảnh hưởng đến sự tập trung của ông vào tăng trưởng. Khán giá duy nhất mà ông trình bày sẽ là những chuyên gia phân tích ở phố Wall – những chuyên gia trẻ chuyên chọn ra những cổ phiếu nổi bật làm việc cho những công ty lớn ở phố Wall như Merrill Lynch, Salomon Brothers Smith Barney, Prudential Securities và Lehman Brothers.

Việc của họ, chứ không phải của ông, là nói với các giám đốc quĩ tương hỗ và các nhà đầu tư. Việc của họ là giới thiệu cổ phiếu của UCBS cho giới truyền thông và cho công chúng. Nhưng để cho họ làm điều đó một cách ấn tượng, ông cần làm nhiều hơn là chỉ thuyết phục họ tin rằng công ty đang làm ăn tốt. Ông cần phải làm cho họ thèm nhỏ rãi và run lên vì kích động. Khi đó, họ sẽ viết những báo cáo nghiên cứu, chuyển tải những cảm giác đó tới hàng triệu nhà đầu tư.

Nhưng Johnston cũng biết rằng các báo cáo tài chính của UCBS khó có thể là một bức tranh hoàn hảo. Nấp sau tất cả những vẻ hào nhoáng được đánh bóng là những khiếm khuyết trong hoạt động của công ty. Có những liên doanh đang nằm trên bờ vực phá sản cũng như những khoản nợ có thể dễ dàng nhận ra.

Đó là lý do tại sao trong buổi sáng Thứ Hai ấm áp tháng Tám này, ông mời vài trong số những nhà tư vấn kinh doanh được trả lương cao nhất trên thế giới đến để giúp ông tìm ra cách trang điểm cho các báo cáo tài chính của công ty. Những nhà tư vấn này rất thông minh. Họ đến từ một trong năm công ty kế toán hàng đầu ở đất nước này. Họ biết tất cả những công cụ mới nhất, những thủ đoạn kế toán để giúp làm đẹp các con số. Nhưng liệu những đề xuất của họ là đủ? Liệu chúng có hợp pháp?

Thủ đoạn kế toán “hoàn toàn hợp pháp”

Mặt trời đã lên cao trên bầu trời Manhatta buộc ngài giám đốc điều hành đưa mắt rời khỏi cửa sổ và nhớ đến những nhà tư vấn đang đợi ông trong phòng họp kín liền với văn phòng của ông. Ông dứt khỏi cơn mơ màng và vội vã bước vào trong phòng họp.

Ngồi trước mặt ông là ba nhân viên đến từ hãng kế toán – một phụ nữ khoảng 40 tuổi có bằng MBA của trường Harvard, một gã trẻ hơn, cũng có bằng MBA và Oliver Dulles, một người đàn ông có mái tóc muối tiêu có nhiều năm kinh nghiệm là chuyên gia kế toán (certified public accountant).

“Chúng ta có một thách thức lịch sử ở trước mắt”, Johnston nói sau màn giới thiệu ngắn. “Để đạt được mục tiêu, chúng ta phải chấm dứt việc coi cổ phiếu của UCBS như ‘cổ phiếu mà chúng ta muốn bán’. Thay vào đó, chúng ta phải coi nó là thứ gì đó lớn hơn. Chúng ta phải nghĩ về nó như một thứ tiền mới – một thứ như đô la, bảng Anh hay yên Nhật. Chúng ta phải làm cho cổ phiếu của UCBS như một trong những loại tiền có giá trị nhất trên thế giới. Chúng ta muốn thấy cổ phiếu của UCBS bay tới tận tầng bình lưu, tạo ra nhiều tiền hơn nữa. Chúng ta muốn dùng thứ tiền tệ đó, nghĩa là cổ phiếu của chúng ta, để mua những công ty lớn hơn.

Ngài giám đốc điều hành dừng lại đôi chút, và trong giây phút im lặng sau đó, ông thầm nghĩ, thêm vào đó, chúng ta phải nâng giá trị cổ phiếu và quyền chọn (option) của cá nhân tôi. Chúng đã biến tôi thành một tỷ phú. Giờ đây, tôi sẽ còn giàu hơn.

Nhà tư vấn Harvard đáp lại như thể bà đã nghe được suy nghĩ của ông. “Giải pháp thứ nhất trong kế hoạch của chúng tôi”, bà nói, “là chúng tôi đề nghị thay đổi quyền lợi của ban quản lý. Chúng tôi cho rằng, họ - ngài – cần được tưởng thưởng và được khuyến khích để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn mức hiện tại. Hiện giờ, nếu tính tất cả những cổ phiếu và quyền chọn, cá nhân ngài sẽ chỉ nhận được không quá 14 triệu đô la trong năm nay. Nhưng dựa trên phân tích so sánh của chúng tôi về mức thu nhập của các giám đốc những công ty tương tự, chúng tôi thấy rằng ngài đáng lẽ phải có thu nhập gấp 5 lần, có thể là 10 lần mức hiện tại. Không cần phải nói, phương tiện duy nhất có khả năng làm điều đó khả thi chính là quyền chọn. Vì thế, chúng tôi để nghị ngài nâng cấp mạnh mẽ kế hoạch thưởng quyền chọn.

Ngài giám đốc điều hành gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Quyền chọn là một phương thuốc tiên mới của các tập đoàn Mỹ. Chúng cho phép các giám đốc điều hành cơ hội kiếm được món bở ngàn năm có một (killings of a thousand lifetimes), và nó không bao giờ bị coi là chi phí hay bị trừ khỏi lợi nhuận được báo cáo cho cổ đông. Quyền chọn cho phép các giám đốc điều hành tham ô của công ty và lấy những khoản tiền lớn trong khi cổ đông hầu như chẳng hề biết gì.

Ngài giám đốc điều hành đã sở hữu một lô quyền chọn cho phép ông có quyền mua cổ phiếu rẻ hơn giá hiện tại: giá cổ phiếu của UCBS đang là 12 đô và quyền chọn cho phép ông mua 1 triệu cổ phiếu với giá trung bình 10 đô, rẻ hơn 2 đô so với giá trị. Nếu ông muốn chuyển chúng ra tiền mặt ngay bây giờ, ông có thể mua 1 triệu cổ phiếu giá 10 đô và bán ngay lập tức với giá 12 đô, bỏ túi lợi nhuận 2 đô la trên cổ phiếu hay tổng cộng 2 triệu đô la. Không tồi lắm, ông tự nghĩ, nhưng vẫn chưa đủ.

Điều làm ông lo lắng nhất, tuy vậy, chính là điểm chính mà những nhà tư vấn đang cố gắng giải quyết: khoảng cách ngày càng tăng lên giữa phần thu nhập của ông và những giám đốc ở các công ty khác có cùng qui mô.

Johnston biết, chẳng hạn, Enron, một công ty ở trên tuyến đầu của “sáng tạo kế toán”, đặc biệt hào phóng với những lãnh đạo của nó. Chủ tịch Enron Kenneth Lay nhận được lương cơ bản 1.3 triệu và thưởng 7 triệu đô la. Thêm vào đó, vào tháng 3 năm 2000, ông bán quyền chọn trị giá 123 triệu đô. Cùng lúc đó, giám đốc điều hành của Enron, Jeffrey Skilling nhận lương 850 nghìn đô, thưởng 5,6 triệu đô và bán quyền chọn năm 2000 trị giá 62 triệu đô la. Cũng trong thời gian đó, Andrew Fastow, giám đốc tài chính của Enron ra đi với hơn 30 triệu đô la nhờ quản lý 2 hai “thực thể có mục đích đặc biệt” của Enron.

Trong khi đó, WorldCom nhanh chóng biến thành một nhà khổng lồ viễn thông lớn nhất thế giới, chủ yếu nhờ vào các kế hoạch thâu tóm mua lại giống như kế hoạch tại UCBS. Johnston ngờ rằng chế độ thu nhập của WorldCom nằm trong số những nơi có thu nhập cao nhất. Thực tế, Bernard Ebbers, chủ tịch và Giám đốc điều hành của WorldCom nhận lương 41 triệu trong năm 2000, cùng với thưởng 10 triệu đô. Thêm vào đó, ông ta được thưởng hơn 1000 quyền mua cổ phiếu WorldCom, vào lúc đó trị giá 53,4 triệu đô la. Trong năm 2000, ông Ebbers dã bán hơn 1 triệu quyền chọn có giá trị 23,4 triệu đô la. Sau đó, trước khi rời công ty, ông ta còn được công ty cho vay một số tiền lớn ngạc nhiên là 408 triệu đô la, chưa kể đến khoản lương bảm đảm 1,5 triệu đô la suốt đời.

Điều Johnston không biết là đế chế Enron sẽ sụp đổ sau đó trong sự ô uế của gian lận. Ông cũng không cảm nhận được tí gì vè những vấn đề sắp tới của WorldCom, một vụ gian lận và phá sản mà so với nó, vụ Enron chỉ giống như một trò chơi bài thân thiện.

Chẳng ai mường tượng ra hậu quả đó. Thay vào đó, cuộc nói chuyện tại UCBS tập trung vào phần quyền chọn trong gói thù lao cho lãnh đạo công ty, đó là điều mấu chốt. Nếu bạn có quyền chọn để mua cổ phiếu một công ty, gọi là quyền mua, bạn sẽ có quyền, nhưng không có nghĩa vụ, mua cổ phiếu ở mức giá tương đối rẻ và sau đó bán ngay lập tức với giá cao hơn. Nếu giá cổ phiếu công ty không tăng, bạn sẽ chẳng mất gì ngoại trừ cái quyền đó. Nhưng nếu giá cổ phiếu tăng, quyền chọn có thể có giá trị hơn 10 năm lương cơ bản.

Chẳng cần thông minh lắm để tính toán điều gì sẽ xảy ra nếu cổ phiếu công ty giảm, chẳng hạn 30%: những quan to (big cheese) sẽ mất 1/3, 1 nửa hay thậm chí 2/3 tài sản cá nhân của họ. Tùy từng công ty mà số phần trăm đó được qui ra hàng trăm triệu đô la.

Những giám đốc điều hành công ty này không ngu ngốc. Họ biết rằng chẳng gì tốt hơn là một báo cáo lợi nhuận hấp dẫn để nâng giá cổ phiếu. Do đó, mỗi quí một lần, những giám đốc điều hành bất lương nắn bóp các con số, che giấu thua lỗ bằng mọi cách có thể, tăng giả tạo doanh thu và khi tất cả những điều đó đều thất bại, họ tỉnh bơ nhìn các nhà đầu tư và dối trá về sự giàu có và sang trọng của họ (lied their rich and well-tailored fannies off).

Sau đó, khi những cổ phiếu này sụp đổ và hàng triệu người cháy túi, công chúng và quốc hội Mỹ sẽ cay đắng xót xa với những ngài giám đốc điều hành đã ra đi bình an vô sự với những biệt thự trên đồi Beverly, những du thuyền trên biển và những tài khoản ngân hàng 8 con số. Tuy nhiên, hiện giờ thì rất ít người thắc mắc về những biện luận của phố Wall về những món tiền lương lớn và những phần thưởng khổng lồ thường dành cho CEO. “Miễn là những giám đốc này làm giàu cho bạn”, những nhà phân tích lý giải, “tại sao bạn phải quan tâm lương họ lớn cỡ nào?”.

Do đó, ở UCBS, độ lớn không phải là vấn đề khi người phụ nữ có bằng MBA Harvard đưa cho Johnston báo cáo với những sửa đổi về chế độ thù lao cho ban giám đốc. Trên báo cáo, tên của ông cùng với bốn quan chức cao cấp khác trong công ty xuất hiện ở trên cùng mỗi cột, trong khi bên trái là các kịch bản khác nhau của cổ phiếu UCBS, từ mức 10 đô cho tới 100 đô. “ Đây là bản tóm tắt cho thấy ngài và phần còn lại của ban lãnh đạo cấp cao có thể kiếm được bao nhiêu với đề nghị của chúng tôi, tùy thuộc vào điều gì xảy ra với giá cổ phiếu của UCBS”, bà ta tuyên bố.

Johnston nhìn xuống bản báo cáo trong khi giấu đi nụ cười mỉm. Con số cuối cùng trong tổng thù lao của ông là 360 triệu đô la ở mức giá cổ phiếu 100 đô. Ngay cả khi giá cổ phiếu chỉ là một nửa mức đó – 50 đô la – ông cũng có thể ra đi với 160 triệu đô. Hiện giờ mới là cô đang nói! Ông nghĩ.

Người phụ nữ chờ đợi cho đến khi toàn bộ tác động của những con số đã lắng xuống và tiếp tục giải thích cơ sở nằm sau những tính toán trên. “Đầu tiên, chúng tôi đề nghị tăng gấp 4 lần tổng số quyền chọn thưởng cho các giám đốc. Thứ hai, chúng tôi thu hẹp chế độ thưởng quyền chọn theo hướng tăng cho ngài và các giám đốc cấp cao và giảm cho lớp quản lý cấp trung và không gì cả cho nhân viên bình thường. Không cần phải nói,” bà ta chua thêm, “không phải là tôi hay ngài có thể quyết định mọi thứ - điều đó phụ thuộc vào hội đồng quản trị của UCBS”.

Ngài giám đốc điều hành hơi lo lắng về điều này. Ông biết rằng thành viên của hội đồng quản trị sẽ thông qua những thay đổi này nhanh chóng. Vì sao ư? Vì lý do đơn giản là chính họ cũng được hưởng những thù lao tương tự như những giám đốc cấp cao. Họ sẽ được thưởng nhiều hơn khi họ bỏ phiếu đồng ý.

“Bây giờ”, người phụ nữ kết luận, “ban lãnh đạo sẽ có động lực thực sự mạnh mẽ để làm mọi thứ có thể nhằm nâng giá cổ phiếu UCBS trên thị trường chứng khoán, điều đó đưa tới mục thứ 2 trong kế hoạch của chúng tôi – lợi nhuận của ngài. Oliver sẽ trình bày tiếp từ đây”.

Bà ta gật đầu với gã chuyên gia kế toán, người kéo ra một tấm bảng màu vàng, trên đó gã vẽ nguyệch ngoạc nhiều điểm.

Trò chơi với những công ty con

Oliver Dulles là một tay kỳ cựu về các con số, vượt ra khỏi địa hạt của một chuyên gia kế toán bình thường. Gã có bằng cử nhân tâm lý xã hội của đại học New York từ nhiều năm trước, nơi các giáo viên biết đến gã vì gã luôn cho rất nhiều tính toán thống kê vào mỗi bài luận nghiên cứu.

Tuy nhiên, vào đầu những năm 1980, nguồn tài trợ cho những nghiên cứu của gã, vốn rất dồi dào dưới thời tổng thống Johnson, đã cạn kiện. Công việc giảng dạy cũng hiếm. Do đó, Dulles thay đổi nghề và lái những kỹ năng xử lý các con số sang nghề kế toán, nơi một công việc ổn định với mức thu nhập gần như được đảm bảo. Kế toán thường làm cho gã chán ngán nhưng gã cảm thấy không gã chẳng có lựa chọn nào khác.

“Chúng tôi đã xem xét kỹ về hoạt động của các ngài”, gã nói. “Chúng tôi đã đọc từng dòng một trong báo cáo lỗ lãi của công ty. Và chúng tôi đã nhìn thấy những cơ hội để làm cho nó trông hấp dẫn hơn so với hiện tại”.

“Trước tiên,” gã tiếp tục, “chúng tôi đã tập hợp lại danh sách tất cả các công ty con, liên doanh và hợp tác chung vốn ở Mỹ và nước ngoài. Đó là một bản danh sách dài tới 27 trang, rất phức tạp nhưng cũng rất tiềm năng với nhiều cơ hội – những cơ hội mà chúng tôi đã tận dụng. Trong hầu hết trường hợp, UCBS chỉ sở hữu không quá 49% vốn của những công ty đó. Điều đó thật khôn ngoan. Bởi vì như ngài biết, nếu ngài không nắm cổ phiếu đa số, ngài không phải tổng hợp kết quả tài chính của chúng vào kết quả của UCBS. Điều đó có nghĩa là ngài có thể tiếp tục sử dụng chúng để chuyển nợ ra khỏi sổ kế toán của ngài vĩnh viễn. Sau đó, nếu như những công ty con này có lãi, chúng ta sẽ có lựa chọn mua cổ phiếu chi phối chỉ tốn thêm một chút tiền. Đó là khi chúng ta có thể kết hợp số liệu của chúng, cộng vào lợi nhuận của UCBS và chúng ta có thể khoe với các nhà đầu tư”.

“Nếu mặt trái, chúng ta thắng, mặt phải các bạn thua”, nhà tư vấn trẻ phụ thêm đầy phấn khích. “Nếu có lỗ, chúng ta sẽ giấu đi. Nếu có lãi, chúng ta sẽ khoe chúng. Kiểu gì thì chúng ta cũng đẹp đẽ như bông hồng. Mọi người đều làm thế cả”.

Thực tế, trong những năm cuối thập kỷ 1990, hầu như mọi công ty đa quốc gia lớn đã lợi dụng công ty con, đặc biệt những công ty ở nước ngoài để làm đẹp sổ sách kế toán.

Hình mẫu chủ yếu được dẫn đến trong buổi gặp chính là Enron, công ty dễ dàng trở thành vô địch trong trò chơi gian lận với các công ty con. Theo một số ước đoán, Enron có tới hơn 900 công ty con, công ty chung vốn và liên doanh ở Mỹ và nước ngoài, nhiều trong số đó chỉ là cái vỏ rỗng. Enron tuyển dụng 245 luật sư và 145 trong số đó làm việc tại tòa tháp đôi ở Houston, Texas – một số lượng tương đương với số luật sư trong 6 văn phòng luật lớn nhất thành phố. Họ làm việc toàn thời gian để xây dựng vẻ ngoài hợp pháp cho mạng lưới công ty con khổng lồ. Enron cũng rất lão luyện trong việc thổi phồng giá trị tài sản và nhờ đó nó có thể làm cho phố Wall, toàn bộ chính phủ Mỹ và hàng triệu nhà đầu tư tin rằng nó là công ty lớn thứ 7 tại Mỹ, lớn hơn cả Walt Disney, JP Morgan Chase, Boeing, 3M và Chevron Texaco. Sau đó, người ta phát hiện rằng nếu doanh thu của Enron được tính chính xác, công ty chỉ lớn thứ 69.

Các nhà tư vấn cũng trích dẫn những trường hợp khác đã thành công trong những thủ thuật hợp pháp để chuyển nợ và lỗ như: Adelphia Communications, Computer Associates, Global Crossing, Halliburton, Lucent Technologies, Qwest Communications và Tyco International. Sau đó, người ta phát hiện rằng trong một số trường hợp, những thủ thuật bất hợp pháp cũng đóng vai trò lớn. Những hành động bất hợp pháp đó đã là chủ đề nóng hổi trên trang đầu của báo chí, nhưng chính những hành động gọi là hợp pháp lại chính là nền tảng trong các chiến lược lừa dối của các công ty.

Ngài giám đốc điều hành của UCBS đã nghe nhiều về sáng tạo kế toán trước đó và ông có thể chấp nhận trò múa rối với những con số ở chỗ này chỗ khác. Tuy nhiên, những đề xuất đang nằm trên bàn thì ở qui mô lớn hơn nhiều. Giờ đây, ông đang nói chuyện với những đại diện của một trong những công ty kế toán được kính trọng nhất nước Mỹ… và họ đang trình bày một kế hoạch có thể biến các công ty con thực tế thành thùng rác kế toán – một chỗ để vứt bỏ những khoản nợ xấu và những chi phí lớn. Mặc dù lo ngại, ông cũng ngồi ngả người và im lặng lắng nghe.

“Cấu trúc này”, nhà tư vấn trẻ tiếp tục “sẽ làm cho báo cáo lợi nhuận và bản cân đối kế toán của các ngài tỏa sáng. Chỉ dựa trên đó thôi, thay vì bán ở giá 11 đô 1 cổ phiếu, UCBS sẽ bán được tới gần 18$ 1 cổ phiếu. Thay vì chỉ huy động được vài đồng bạc, các ngân hàng đầu tư sẽ có thể cho ngài tiếp cận với nguồn vốn mà ngài không thể mơ đến trước đây. Các nhà đầu tư và các ngân hàng sẽ ném tiền cho ngài như thể không còn có ngày mai”.

Thủ thuật tuyệt diệu với quĩ lương hưu

Một thoáng im lặng khi nhà tư vấn từ Harvard yêu cầu trợ lý giảm độ sáng đèn phòng và bật máy chiếu nối với laptop của bà. “Chúng tôi dành điều tuyệt diệu nhất đến cuối cùng”, bà thông báo. “Tất cả những điều chúng tôi đã nói với ngài cho đến giờ thật nhỏ bé nếu so với điều chúng tôi sắp cho ngày thấy ngay bây giờ”.

Logo của Microsoft PowerPoint xuất hiện thoáng chốc trên màn hình lớn trên tường và theo sau là hình chiếu đầu tiên. “Đây là những số liệu mới nhất mà chúng tôi có về quĩ lương hưu của UCBS,” bà tuyên bố, ngừng lại đột ngột để hàm ý một điều kì diệu sắp sửa được nói đến. “Biểu đồ thứ nhất trả lời cầu hỏi quan trọng: chúng ta cần bao nhiêu tiền để thỏa mãn những hứa hẹn của chúng ta với nhân viên? Câu trả lời là 9,6 tỷ đô la. Đồ thị thứ hai trả lời câu hỏi quan trọng tiếp theo: Chúng ta thực sự đang có bao nhiêu tiền trong quĩ lúc này? Dựa vào giá trị các khoản đầu tư vào cuối năm, câu trả lời là 11,1 tỷ đô la”.

Như phong cách thường thấy, Johnston giả bộ không biết gì để gợi ra một câu hỏi không thiên vị. “Đó có phải là thặng dư lớn không?”, ông ta thắc mắc.

“Ngài không đùa đấy chứ, nó rất lớn. Đó là khoản thặng dư lớn tới 1,5 tỷ đô la hơn số chúng ta cần. Nói cách khác, quĩ lương vượt quá mức cần thiết 1,5 tỷ. Tại sao? Thị trường chứng khoán đang tăng trưởng. Thị trường trái phiếu cũng đi lên. Vì thế danh mục đầu tư đã tăng trưởng hơn mức dự báo. Đây chính là mỏ vàng. Và mỏ vàng này vẫn đang nằm đó mà phần lớn chưa bị đụng tới.”

Ngài giám đốc điều hành thực sự bối rối. “Tôi không hiểu. Khoản thặng dự 1,5 tỷ mà bà nói là tiền thuộc về nhân viên của chúng tôi. Đó là tiền giữ trong những quĩ riêng không có liên hệ gì với hoạt động của chúng tôi cả. Làm thế nào mà chúng tôi có thể chuyển tiền này sang tài khoản của chúng tôi chứ? Bà biết rõ là chúng tôi không thể thoát nếu làm thế. Người ta bị bỏ tù vì làm những điều như vậy”. Khi sự lo lắng dâng lên, trán ngài giám đốc bắt đầu giật giật, như thường xảy ra khi ông hoặc là sợ hãi hoặc là phát điên lên.

“Không không. Chúng tôi không nói về việc thực sự lấy quĩ lương hưu. Tất cả những gì chúng tôi nói ở đây là chuyển vòng quanh một vài con số. Những gì chúng tôi sẽ làm là đưa khoản lợi nhuận chưa hiện thực hóa trong quĩ lương hưu – khoản lợi nhuận trên giấy đó – sang sổ sách của chúng ta. Sau đó chúng ta sẽ báo cáo chúng là lợi nhuận với nhà đầu tư để làm cho các báo cái tài chính của chúng ta trông tuyệt diệu, để các nhà đầu tư đẩy giá cổ phiếu UCBS lên.

Người đàn ông trẻ hơn, hầu như im lặng suốt buổi thuyết trình, nhảy vào cao giọng với vẻ phấn khích. “Tuyệt!, chỉ cần đợi cho đến khi các con số tấn công phố Wall! Cổ phiếu UCBS sẽ vượt trần!”
Johnston nghĩ rằng điều đó quá tốt để có thể trở thành hiện thực. Nhưng nó đã xảy ra mọi nơi trong thế giới thực. Thực té, vào năm 2000 và 2001 một số tập đoàn lớn nhất nước Mỹ đã sử dụng những lợi nhuận trên giấy từ quĩ lương hưu của nhân viên để nâng ngoạn mục mức lợi nhuận họ báo cáo cho cổ đông.

Verizon Communications, chẳng hạn, lỗ hàng tỷ đô la vào năm 2001. Nhưng chỉ bằng cách cộng thêm lợi nhuận dự tính hơn 2 tỷ đô từ quĩ lương hưu, công ty này đã có thể báo cáo mức lợi nhuận đáng kinh ngạc 389 triệu đô la. Eastman Kodak lỗ hàng chục triệu đô vào năm 2001. Nhưng bằng cách gộp lợi nhuận dự tính 100 triệu đô từ quĩ lương hưu, kì diệu làm sao, khoản lỗ đã biến thành khoản lãi 76 triệu. Một công ty khác cũng lỗ hàng chục triệu vào năm 2001 là TRW. Nhưng cũng bằng cách cộng thêm lợi nhuận dự tính 100 triệu từ quĩ lương hưu, nó đã biến lỗ thành lãi 68 triệu đô. Khoản lỗ 99 triệu vào năm 2001 của Honeywell International đáng lẽ sẽ lớn hơn nhiều. Nhưng công ty đã cộng cả hàng trăm triệu lãi dự tính trong quĩ lương vào lợi nhuận công ty. Và còn nhiều trường hợp khác nữa.

Lợi nhuận ma

Johnston không có ý niệm mơ hồ nào về sự sụp đổ thị trường tài chính sắp tới, nhưng ông quyết định tranh luận. “Thế nếu thị trường chứng khoán đi xuống, thì điều gì sẽ xảy ra?”

Những nhà tư vấn chết lặng. Âm thanh duy nhất trong phòng họp là tiếng rì rì nhỏ phát ra từ quạt máy chiếu. Cuối cùng, người phụ nữ nói nhẹ và chậm để làm giảm mức độ quan trọng của những gì bà chuẩn bị nói. “Thị trường chứng khoán không bao giờ đi xuống quá một năm. Và dù gì, theo qui định, ngài có thể lờ nó đi”.

“Bà làm điều đó thế nào?” ngài giám đốc hỏi.

“Thực sự rất dễ. Giả dụ, chúng ta có 100 triệu trong quĩ và chúng ta dự tính lãi hàng năm là 10%. Điều đó cho phép chúng ta có 10 triệu lãi 1 năm, đúng không?”

“Đúng”

“Nào, giả sử chúng ta gặp một năm xui xẻo trên thị trường chứng khoán như ông lo lắng và quĩ lương hưu bị lỗ 5%. Ngài nghĩ xem chúng ta sẽ phải trừ bao nhiêu khỏi báo cáo lợi nhuận công ty?”
“Năm phần trăm của 100 triệu nhỉ? Vậy là 5 triệu”

“Đoán lại coi, theo GAAP – Những nguyên tắc kế toán được công nhận chung – chúng ta có thể chia khoản lỗ chưa hiện thực hóa ra 10 năm, hay bất cứ khoảng thời gian nào khác.”

“Ồ, tôi đã hiểu, ngài giám đốc nói. Chúng ta sẽ chỉ phải trừ đi 1 phần 10 khoản lỗ. Do đó, chúng ta chỉ đưa ra khoản lỗ có nửa triệu”.

Người đàn bà lắc đầu. “Không, chúng ta thực tế có thể báo cáo lãi 9,5 triệu”.

“Hả? Làm thế quái nào mà bá kiếm ra con số đó?”

“Hãy nhớ, chúng ta đã dự tính lãi 10 triệu 1 năm. Do vậy, chúng ta có thể lấy 10 triệu lãi dự tính đó trừ đi nửa triệu khấu hao lỗ do thị trường chứng khoán suy giảm. Do đó, 10 triệu trừ nửa triệu bằng 9,5 triệu”.

Ngài giám đốc bật cười khùng khục. Những nhà tư vấn thì cười không kiểm soát nổi. Mọi người trong phòng đều đủ thông minh để nhận ra rằng lợi nhuận 9,5 triệu chỉ là lợi nhuận ma – một ảo ảnh tạo ra bởi thủ thuật kế toán. Điều làm cho họ thấy nực cười là những thủ thuật đó lại hoàn toàn phù hợp với GAAP.

“Như chúng tôi vừa nói với ngài,” người phụ nữ thêm, “thủ thuật kế toán với quĩ lương hưu là một mỏ vàng. Bất kỳ lúc nào ngài cần nâng giá cổ phiếu UCBS, bất cứ lúc nào ngài cần huy động thêm vốn mới, tất cả những gì ngài cần làm là biến báo những con số này một chút… và ngài sẽ đặt tay vào hũ vàng này.”

Trò chơi chứng khoán phái sinh

“Phần tiếp theo có lẽ là công cụ ít được biết đến nhất, ” nhà tư vấn trẻ nói. “ Chứng khoán phái sinh!. Chúng ta sẽ…”

“Giải thích cho ông ấy chúng là gì trước đã”, gã chuyên gia kế toán ngắt lời.

“Ồ vâng. Chúng là đánh cược, đánh cược trên hầu như mọi thứ. Đánh cược liệu một nước đang phát triển có phải trả mức lãi nhiều hơn 3% so với mức mà Kho bạc Mỹ trả từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 30 tháng 6 ư? Không vấn đề. Đánh cược trên gas tự nhiên, điện và vi chíp ư? Quá dễ.”

Ngài giám đốc điều hành biết rằng có nhiều thứ để nói về chứng khoán phái sinh hơn thế, nhưng ông muốn chuyển sang phần tiếp. “Nếu chúng ta thua?” ông hỏi.

“Thắng, thua hay hòa, có đủ cách để định giá những chứng khoán này. Thêm nữa, có đủ phương pháp để biến báo thời gian định giá chính xác. Thực tế , ngài có thể làm mọi thứ ngài muốn. Giả dụ, ngài không muốn mua bán mộng chứng khoán phái sinh chuẩn đang bán trên các sở giao dịch. Ngày chỉ muốn tạo ra một chứng khoán phái sinh riêng biệt của chính ngài – với đủ loại kích cỡ, hình dáng hay màu sắc. Tất cả chúng, về bản chất, chỉ là các hợp đồng. Nên ngài sẽ đến gặp một số tay chơi trong trò chơi – đó có thể là một đối thủ cạnh tranh, một ngân hàng, bất kỳ cái gì – và ngài nói, “Tôi cược là điều này hay điều kia sẽ xảy ra”. Anh ta nói, “Ok, tôi sẽ cược”. Ngài viết hợp đồng, kí và thế là xong. Giờ đây ngài tự hào là chủ của một chứng khoán phái sinh mới mà có lẽ chưa từng tồn tại trước đó. Bởi vì nó là duy nhất, ngài định giá thế nào, ghi sổ thế nào và thông báo thế nào tới nhà đầu tư là phụ thuộc vào ngài. Tồi lắm thì ngài phải viết gì đó vào phần chú thích của báo cáo, chỗ mà chẳng ai để ý và càng không hiểu.

Paul E. Johnston, một trong những câu chuyện thành công của thập kỷ 90, cảm thấy nỗi đau tội lỗi ở bên trong và lo lắng về những vấn đề có thể xảy ra một ngày nào đó. Nhưng những lo lắng này bị che lấp bởi một sự hối hả, một cảm giác đột ngột của quyền lực ông cảm thấy về số phận mình và về con đường mà ông mường tượng rõ ràng để tới sự giàu có. Hơn nữa, trong kết luận của họ, các nhà tư vấn đã làm ông bớt lo sợ với bốn từ: hoàn toàn hợp pháp.

“Mọi thứ chúng tôi đề xuất, mọi thủ thuật, đều hoàn toàn hợp pháp”, các nhà tư vấn nói, hầu như nhất trí với nhau.
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:40 pm

Chương 3 : Wall street phô trương

Những con số được điều chỉnh của UCBS lần đầu đến với phố Wall thông qua một hội nghị cá nhân được kêu gọi bởi khoảng 24 nhà phân tích. Theo thông lệ, chỉ một số ít nhóm được biết về hội nghị và được phép tham dự - hầu hết là đại diện của các hãng lớn.

Johnson đã quá phô trương khi đưa ra những con số lợi nhuận mới, làm cho nó rõ ràng là còn vượt quá những kỳ vọng lạc quan nhất của phố Wall. Những nhà phân tích đưa ra những bản báo cáo quá cưòng điệu về công ty…. Các nhà đầu tư mua chứng khoán mộtcách ngông cuồng…và UCBS tăng từ 11$ lên 30$.

Tổ chức ký nhận trách nhiệm thanh toán các hợp đồng bảo hiểm hàng dẫn đầu của UCBS là Harris & Jones, 1 trong những hãng môi giới và đầu tư ngân hàng năng nổ nhất ở phố Wall. H&J chộp lấy cơ hội để vực dậy khó khăn về vốn mà CEO đang hy vọng. Nhà phân tích xuất sắc hàng đầu của hãng, một trong những ngưòi có ảnh hưởng ở phố Wall, đưa ra một cái nhìn rực rỡ, loan báo một tỷ lệ mua mạnh trên TTCK, một khối lượng lớn cổ phiếu được phân phối cho những nhà môi giới, rồi lại được những tay môi giới này đẩy cho khách hang của mình.

H&J thậm chí đầu tư ngay 1 vài tỷ USD vào studio TV và hệ thống phát thanh vệ tinh của mình ở trụ sở phố Wll. Do đó chứng khoán chào bán có thể được dàn xếp một cách cẩn thận trên CNBC và hệ thống thông tin tài chính hang đầu trong nước. Haris biết rằng hang triệu nhà đầu tư sẽ xem chương trình đó và chính họ cũng không muốn bị vớ phải những chứng khoán bị khuyến cáo trên Bloomberg, trên web hay trên thời báo phố Wall vào ngày hôm sau. Với sự dẫn dắt của Haris, UCBS đã bán ra 35triệu cổ phiếu với giá trung bình 36$

Chỉ trong vòng một vài tuần, CEO của UCBS, PaulE.J, đã được ca ngợi như một ngưòi hùng Phố Wall, được đề cao là 1 Forbes( 1 trong 500 cty lớn có vốn ít nhất 500 triệu $) thậm chí được mời đến nhà Trăng để ngủ 1 đêm trên chiếc giường của Lincol. UCBS đã tăng tới 50$ và thậm chí còn hơn.

Thật kỳ lạ là, không một ai kể cả những chuyên gia fân tích Harris hay của các công ty ở fố Wall chứng minh được những lợi nhuận tư quỹ hưu trí được thổi phồng. Không ai bận tâm đên việc xem lại những báo cáo năm 10K của công ty-hãy xem xét cẩn thận những chú thích đáng ngờ về những khoảng thời gian có thể bị giấu

Phố Wall nhất trí tuyệt đối về sự tăng trưởng huy hoàng của cổ phiểu UCBS. Thực tế thì, sự nhất trí này được thổi phồng dến mức một vài nhà quản lý quỹ tương hỗ những người mà trong tay chẳng có một chút cổ phiếu UCBS nào trong danh mục dầu tư, bị buộc tội là “lỡ tàu”, thậm chí “sai lầm trong trách nhiệm uỷ thác của nhà đầu tư”. Rồi cả những định chế trong nước, như các quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí, nhà thờ, nguồn cung cấp vốn của các trường đại học, các tập đoàn lớn và nhiều định chế của Đức đã quá nhanh chóng theo dòng mà chất đầy cơ phiếu UCBS.Giá cổ phiếu lại ssược đẩy lên, và lần này lên tới 64$

Tuy nhiên có một nhà đầu tư không hề vui mừng. Cô ta làm ở H&J, cô ta cũng nghiên cứu chứng khoán. Nhưng cô ta thực sự là một nhà kinh tế đã qua đào tạo, tên cô ta là: Tamara Belmont, trợ lý nghiên cứu cho những nhà phânt ích lão luyện của UCBS. Trong suốt buổi hội nghị qua điện thoại với UCBS, cô im lặng. Kể cả những chú thích cho sếp mình về UCBS, cô cũng không nói gì.

Nhưng sau đó, khi mà cơn sốt Internet bùng nổ, cô đã nói thẳng những mối quan tâm của mình. Cô muốn sếp giảm hạng của công ty đến mức “bán”. Nhưng ông ta nói với cô rằng, hành động này sẽ là thảm hoạ không chỉ đối với cá nhân ông, đói với công ty mà có thể ảnh hưởng cả tới UCBS. Ông kết luận đi kết luận lại 1 cách rõ rang rằng bất cứ một sự giảm hạng nào vào thời điểm này có thể làm chứng khoản sụt giá và phá hoại mối lien hệ kinh doanh quan trong.

Để bày tỏ sự thất vọng của mình, cô nhấc máy và gọi cho một người đồng nghiệp chung phòng cũ, người cũng làm trong cùng ngành với mình. “Bạn không ở trong thị trường, tôi sẽ nói cho bạn điều này”, cô nói bằng một giọng rất dịu dàng, gần như là thi thầm với người nghe. “ Tôi nghĩ UCBS đang ở trong vòng thảm hoạ. Công ty đã tăng trưởng quá nhanh, quá sớm. Côn ty đã có quá nhiều nợ, và nhanh chóng tăng vốn. Tài sản hữu hình lại quá ít, không đất đai, ko nhà cửa, không có gì có thể chuyển hoá thanh tiền mặt trong trường hợp cần thiết. Giá cổ phiếu đã quá đắt so với những gì thực tế kiếm được. Thậm chí lợi nhuận còn được giũ nhẹ bằng những mánh lới quảng cáo, tôi có thể hiểu được hầu hết trong đó. Hệ thống kế toán của công ty thì hết sức rắc rối”

“ Và “anh chàng” của bạn vẫn tiếp tục cho nó 1 tỷ lệ mua cao? Bạn có nghĩ rằng đó có thể là 1 loại gian lận trí óc?”

Những lời thì thầm của Belmost được thay thế bằng mọt giọng chắc chắn hơn: Một loại gian lận trí óc? bạn đang đùa tôi sao? Đây rõ rang là một lời nói dối…! Đây là một sự bán rẻ những nghiên cứu và một cú lừa tồi tệ”

Cô im lặng trong chốc lát, rồi nói: “ Tôi không phải là ngưòi duy nhất ở đây đã chán ngấy với trò chơi ô chữ mà người ta gọi là “nghiên cứu” này. Chỉ một vài ngưòi nghiên cứu là có cùng cách suy nghĩ với tôi, nhưng chúng ta đang bị mắc bào một cái bẫy. Chỉ vào ngày nào đó, khi chúng ta phàn nàn với ông giám đốc nghiên cứu,. Ban có nhớ ông ta ko? Don Walker. Người bạn gặp ở bữa tiệc trong kỳ nghỉ đó, lúc đó chúng ta mới được giải toả. Sẽ không có gì thay đổi ở đây, trừ Don. Tôi cũng biết rằng cá nhân ông ta cũng ghét việc này như tôi. Mặc dù trước mặt công chúng, ông ta luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng, nhưng đó là vì công việc-không phải do quá sợ hãi hay quá tự hào khi phải nói về chuyện này.

“ Làm sao bạn biết ông ta nghĩ gì?”

“ Vài gã đã tếu táo về chuyện này vài ngày trước. Họ nói rằng họ dã nghe lỏm đợc ông ta trong phòng nam. Ông ta có thói quen đến đó, tiết lộ bí mật, và sau đó gào to lên, cằn nhằn qua yết hầu và nguyền rủa những nhà đầu tư ngân hang. “ Những tên khỉ gió!” hay “ IPOs”. mỗi lần đều vậy. Tôi còn tận mắt chứng kiến mà”

“Quên ông ta đi. Thế bạn định làm gì bây giờ?”

“ Kế hoạch là đi cảnh báo cho một vài khách hang tốt nhất-những người mua UCPS vào đợt IPO – vài năm trước. Một vài trong sô họ giò đã là CEO ở những công ty ma chúng ta đã thực hiện nghiệp vụ ngân hang đầu tư với họ. Chúng ta không thể chống lại họ được.

“Nhưng tỉ lệ UCBS của sếp bạn thì sao?” Người bạn hỏi. “Liệu ông ta có kế hoạch nắm giữ những gì mua trên TTCK ko?”

“Bây giờ thì có…hay ít nhất cho đến khi tình trạng phô trương quá mức này biến mất khỏi thị trường” Sau đó, Don Walker dự đoán chúng ta sẽ chỉ giảm nó đến mức “tích luỹ” và sau đó có thể ở mức “giữ giá”. Ông ta nói chúng ta sẽ giảm nó xuống 1 cách từ từ và nhẹ nhàng thôi. Có thể khi chúng ta làm việc này, nó đang ở 1 tình trạng sung sức trên đường đua, sẽ chẳng có nhiều người để ý đến lời cảnh báo, và giá nó sẽ chẳng giảm. Cuối cùng, ông ta dự đoán chúng ta chỉ có thể giảm những thong tin đã đưa ra. Rồi chúng ta sẽ kiếm được ít di từ công ty này. Ngoài ra, không ai ở ngoài hang biết chúng ta làm việc này. Nhưng chúng ta sẽ làm, chúng ta sẽ dừng không đưa ra những báo cáo mới nữa, để mặc tỷ lệ đó, và….”

“ Và để mặc hang ngàn nhà đầu tư nhỏ bị quay cuồng trong gió?”
Tamara quay sang biện hộ nhưng những lời của cô không còn tính thuyết phục nữa “ Hey, cho tớ nghỉ chút đã. Tớ chỉ là một trợ lý, chẳng có tý quan trọng nào . Thêm vào đó, Don nói chúng ta là 1 định chế vì vậy chúng ta không kinh doanh với những nhà đầu tư lẻ tẻ. Họ mua chúng khoán, đó không phải là việc của chúng ta. Ông ta nói chúng ta đang làm điều tốt cho những khách hang VIP của mình. Chúng ta sẽ giảm giá cổ phiếu sơm nhất có thể, xem đó như là 1 chính sách chết tiệt. Tớ ghét nó, nhưng để thoát ra nhanh nhất khỏi tình trạng này, tớ có thể làm gì đây?”

Ngay khi giá cổ phiểu chuyển biến, “đường đua đẹp” trên thị trường chỉ là tình trạng đột ngột tăng trong ngắn hạn, và những phân tích của H&J đa bỏ lỡ cơ hội giảm giá cổ phiếu. Vài tháng sau, những tin đồn về việc thiếu tiền mặt thậm chí phá sản bắt đầu lan truyền. Nhưng không cả Herri hay bất kỳ hãng nào đi theo hướng giảm gí đến mức bán với giá dưới 6$ cả.. và thậm chí sau đó mỗi tỷ giá tồi nhất của UCBS vẫn ở mức “giữ giá”.

Những khách hang VIP của những hãng thực hiện nghiệp vụ ngân hang đầu tư không quan tâm nhiều. Họ mua UCBS với giá IPO 3$. Sau đó, nhận điện thoại từ nhà phân tích và bán với giá hơn 30$, ăn 1 mức lợi nhuận 1 ăn 10. Ngược lại, những nhà đầu tư trugn bình, những người hành động theo những lời khuyến cáo, họ nghe trên CNBC hoặc đọc báo, chắt lọc thong tin. Hầu hết mua vào lúc thị trường sung sức với giá 40-60$. Chẳng ai trong số họ nghe hay đọc đến từ “bán”. Vì vậy họ kiên trì với 1 kết cục đắng!

Phố Wall biến đổi thanh một cái máy ăn thịt khổng lồ và của cải của bạn là bữa trưa cho nó!Thế giới thực tại phố Wall, một cảnh tương tự đang quay lại ở khắp nơi.

Tháng 4 năm 1999 Morgan Stanley Dean Witter chuyên gia phân tích chứng khoán, Mary Meeker được Barron phong tặng là “Nữ hoàng Internet” Hãng này đã đưa ra tỷ giá mua cho Priceline.com là 104$. Trong vòng 21 tháng, nó đã ở giá 1.5$

Những nhà đầu tư đã nghe theo những gợi ý của Meeker đã mất tới 98% tiền của mình. Họ đã biến một núi tiền 10,000 $ thanh 1 đống đất không với giá không hơn 144$.

Không hề ngượng ngùng và dũng cảm khi xuất hiện, Meeker tiến tới đưa ra định giá mua cho Yahoo!, amazon.com, drugstore.com and homestore.com. Các phương tiện truyền thong về vấn đề tài chính tài chính đưa tin về những khuyến cáo này một cách khá nghiêm túc. Hàng ngàn nhà đầu tư khờ khạo khác thì gần như xem thường nhau bằng việc cố gắng vươn dẫn đầu để nghe theo lời khuyên của Meeker.

Ỵahoo giảm 97%, Amazon.com 95 %; Drugstore.com 99 %; và Homestore.com 95.5%.

Tại sao Meeker lại khuyến cáo những “ô con chó” này trước hết? Và tại sao Meeker lại đứng im với việc định giá mua của mình ngay cả khi chúng giảm đến 20%, 50%, 70% và cuôi cùng, thậm chí 98.5%

Câu trả lời là: hầu hết mỗi một người mua lớn của Meeker đều trả cho ông chủ của cô ta - Morgan Stanley Dean Witter - để quảng bá cho cổ phiếu của hãng. Bộ phận bao tiêu của Morgan Stanley đã được trả hang triệu dollar qua vụ này và Morgan Stanley đã thưởng cho Meeker - một tấm sec gây sững sờ trị giá 15 triệu USD – vì đã có công làm việc đó.

Trong khi hang triệu nhà đầu tư đang chới với, Morgan Stanley Dean Witter và Mary Meeker, cũng như những công ty mà họ đã ra sức quảng bá, sung sướng trên đường đến nhà băng. Một trường hợp độc nhất? Nó còn chưa dừng lại.

Năm 1999, những nhà điều hành hàng đầu của Salomon Smith Barney nhận được một tin giật gân: AT&T đang có kế hoạch đưa “gã khổng lồ không dây” này ra công chúng, đây có thể là lần IPO lớn nhất trong lịch sử. Lẽ tất nhiên, các hãng môi giới ở phố Wall đều muốn bao tiêu cho lần IPO có một không hai này. Và lý do nữa: Mức phí thu được có thể lên tới hang triệu dollar.

Nhưng Salomon lại có một vấn đề nhỏ. Một trong những nhà quản lý phân tích chứng khoán, Jack Grubman, đã nói AT&T đang ở trong tình trạng không được tốt trong vài năm rồi. Liệu đây có phải là một vấn đề lớn? Không chỉ ở phố Wall trong cuối những năm 90, Cùng thời điểm đó, những kẻ khéo miệng của Salomon đã đưa ra những chiêu quảng cáo để tóm lấy những thương vụ bao tiêu của AT&T, Grubman đã thay đổi kỳ lạ trong tỷ lệ mua.

Ở khắp nơi, các hãng lớn đã vớ được món lời béo bở từ thoả thuận. Salomon được coi là dẫn đầu về bao tiêu và kiếm được hang triệu đô. AT&T đã có được một thứ hang tốt và lần IPO thanh công rực rỡ đáng them khát… và kiếm được hang triệu đô. Grubman, người tiết kiệm được thời gian và nhét và túi mình 20 triệu đô lương hang năm. Ngược lại, 4.8 triệu nhà đầu tư đã gặp phải một kết cục không công bằng trong phi vụ này. Họ giả định rằng, tỷ giá mua chứng khoán của Grubman là một định giá chân thật. Họ không biết rằng cái thực sự đó là – bán tống bán tháo siêu re được phóng đại

Họ tin Salomon và Grubman. Họ mua AT&T Wireless. Và họ chợt chết lặng khi chứng khoán sụt giảm nhanh chóng từ 29.5$ xuông 14.75$ và mất toi 49.7%.

Những ví dụ cụ thể hơn:

- Mark Kastan của Credit Suisse First Boston gặp phải trường hợp tương tự với Winstar cũng giống như Grubman với AT&T, đã phát hành và lặp lại tỷ giá mua cho đến khi két thúc. Không có gì ngạc nhiên rằng: các khách hang của Kastan đã sở hữu đến 511 triệu USD cổ phiếu Winstar.
- Hay vào năm 2000, một nhà phân tích ở Goldman Sachs đã làm rò rỉ về 11 loại cổ phiếu được đánh giá tốt mà ngay sau đó các nhà đầu tư đã mất đi 71% số tiền của mình. Anh ta đã được trả 21triệu USD chi những cố gắng của mình. Một trong những khuyến cáo thực hiện hay nhất trong năm của anh ta đã giảm 71% và tồi nhất giảm 99.8%
- Trong lúc đó, Henry Blodget của Merrill Lynch đã có tếng tăm khi dự đoán giá Amazone.com có thể đạt tới 400$, nhưng nó lại được bán ra với giá dưới 11$. Blodget cũng dự đoán Quokka Sports có thể đạt 1.250$ thế nhưng công ty này lại phá sản! Blodget nói đi nói lại về tỷ lệ mua mạnh của Pets.com ( nhưng rồi nó bị phá sản), eToys (mất 95% giá trị) , Info-Space (giảm 92%) và BarnesandNoble.com (mất 84% giá trị). Trong khi các nhà đaauf tư mất hang tỷ dola thì Merrill Lynch vớ bở 100 triệu USD từ Internet IPOs
Trong mỗi trường hợp, tất cả đều trở nên giàu có. Những nhà môi giới kiếm hang triệu đô. Nhà phân tích cũng vậy. Những công ty đã được thổi lên cũng kiếm hang triệu đô. Nhưng những nhà đầu tư nghèo thì mất thậm chí cả cái áo của mình!

Tamara Belmon bắt đầu ý thức hơn về mưu đồ xấu xa này của phố Wall. Cô biết đó không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cô cũng biết dó không phải là “lỗi ngọt ngào” hư đồng nghiệp của mình quả quyết. Đó là những chiến dịch được sắp đặt để lừa đảo công chúng. Đó là những cố găng công khai của những người trong cuộc ở phố Wall để trở nên giàu có bằng tiền của các nhà đầu tư.

“Bạn có muốn mình có một đặc ân không?” cô hỏi ngưòi đồng nghiệp cũ trong suốt chuyến thăm cuối tuần. Đưa cho cô bạn tờ giấy đợc in ra từ máy tính của mình, cô nói: “ Hãy đánh máy cái này vào chiếc gương trong phòng tắm của mình, bạn sẽ không bao giờ quên”. Những dòng chữ dần được đọc.

Không có sự nhận nhượng nào trên thị trường phố Wall. Các công ty lớn kinh doanh ko phải làm giàu cho bạn mà họ kinh doanh vì chính bản thân họ.


Vào thời điểm đó, quan điểm trên là tư tưởng căn bản và chẳng bao giờ được đưa ra bàn luận trước công chúng, Tuy nhiên về sau này, những bí mật khủng khiếp nhất của Phố Wall đã được phơi bày trước ánh sáng.
Niềm tin bị đánh cắp

Vào tháng 8 năm 2001, giám đốc điều hành của SEC đã làm chứng trước quốc hội về việc:hầu hết tất cả các công ty ở phố Wall đã có những tranh chấp gay gắt về quyền lợi. Và vào những năm sau đó, Tổng chưởng lý của thành phố New York, Elliot Spitzer đã cho rằng những toan tính này là một đòn giáng vào niềm tin của các nhà đầu từ và nó đã trở thành là một lời cáo buộc gây shock trên thị trường lúc bây giờ, đống thời đã kìm hãm nguồn thu ngày một phình ra của các công ty dính líu vào vụ việc này.

Wall Street không phải lúc nào cũng yên bình, Vào những thập niên đầu tiên, một vài nhà phân tích điều tra thị trường tại các công ty danh tiếng đã nhìn các công ty này với một ánh mắt đầy hòai nghi, đồng thời họ cũng tìm ra các mánh khóe và cùng với các yếu kém của các công ty trên

Tuy nhiên, những xung khắc tại các công ty ở Wall Street trong những năm thuộc thập kỷ 90 đã xẹp hẳn đi, một sự đồng thuận chưa từng có được rấy lên, đẹp đẽ hơn cả những lời quảng cáo đầy cám dỗ

Điều gì đằng sau thay đổi này? Phải chăng áp lực về tài chính và từ chính sự tham lam của mình khiến các CEOs công bố về doanh thu và lợi nhuận chỉ chính xác một nửa hoặc chỉ là những lời nói dối

Thời kỳ trước đây, các công ty ở Wall Street đã cho rằng hầu hết doanh thu của họ có được từ môi giới và từ việc bán và mua cổ phiếu là qua việc họ đại diện cho các nhà đầu tư.Giờ đây, phần lớn các khỏan tiền mà họ có được là từ lệ phí nghiệp vụ ngân hàng đầu tư- chi phí để họ dùng xúc tiến và tiến hành marketing cổ phiếu cho các khách hàng. Nói 1 cách đơn giản, trước đây các công ty ở phồ WAll làm việc cho những nhà đầu tư muốn mua cổ phiểu của các công ty trên thị trường. Nhưng bây giờ, các công ty trên Wall Street lại làm việc chủ yếu với các công ty trung gian, những công ty tìm kiếm các nhà đầu tư và bán cổ phiếu cho họ.

Một sự thay đổi tương tự cũng đã diễn ra đối với đội ngũ những nhà phân tích nghiên cứu độc lập làm việc cho các công ty ở Wall Street. Trong những năm đầu tiên, hầu hết những khỏan tiền công bao tiêu mà các nhà phân tích nhận được đều nằm trong đồng lương eo hẹp. Hiện nay, phần lớn khỏan tiền bao tiêu mà họ có được là từ những khoảng tiền thưởng đi liền với khả năng của họ trong việc đẩy giá cổ phiếu.

Thực ra, từ trước tới giờ luôn có một thông điệp nhắn nhủ các nhà phân tích thị trường từ các công ty trên Wall Street đó là “Nếu các ngai giúp chúng tôi bán được càng nhiều cổ phiếu thì các ngài kiếm được càng nhiều”. Còn về phía những nhà phân tích mà không nhận được thông điệp trên thì họ sẽ nhận được một thông điệp tiếp theo còn thú vị hơn nhiều: “nếu những báo cáo của các ngài làm tổn hại đến doanh số cổ phiếu bán ra của chúng tôi, thì các ngài sẽ nhận hậu quả”.

Vào năm 2001 có một minh chứng kinh điển về cổ phiếu của Enron trước khi sụt giảm, Chung Wu, một nhà phân tích thị trường làm việc tại UBS Paine Webber, đã gửi đi một email tới các nhân viên của Enron nhằm cảnh báo họ về việc nắm giữ cổ phiếu của công ty với mức giá khi đó là 37$ / cổ phiếu thì có thể khiến họ tổn thất lượng tài sản.Bức thư đã khiến cho các nhân viên của Enron rất bực tức, và họ đã oánh trách một cách gay gắt tới Paine Webber_ông chủ của ChungWu. Chung Wu bị sa thải, đồng thời Paine Webber đã vội vàng đưa ngay một lời gợi ý cho giới đầu tư là cổ phiếu của Enron rất đáng mua và “vấn đề bé như con thỏ” này lại lắng xuống. Nhưng chỉ ba tháng sau đó, cổ phiếu của Enron bán ra chỉ còn có 25cent/cổ phiếu

Không một công ty lớn nào ở Wall Street quản lý chặt chẽ các khỏan tiền bao tiêu gắn với bảng theo dõi hiện hành về các cổ phiếu bán ra của các nhà phân tích thị trường. Nhưng ngược lại, các nhà phân tích có thể mắc phải một, hai thậm chí cả nghìn sai lầm nhưng họ vẫn có thể kiếm được những khoản tiền thưởng khổng lồ, miễn là họ tiếp tục đề xuất cổ phiếu đó cho nhà đầu tư và vẫn còn đủ những người mua nhẹ dạ tin vào những lời ngon ngọt của họ. Điều này lý giải vì sao các bộ phận nghiệp vụ ngân hàng đầu tư vẫn tồn tại và mong muốn điều đó tới nhường nào.

Nếu một công ty là tâm điểm chú ý thì liệu công ty đó ngày một trở nên sa sút hay không? Nếu như một nhà phân tích đơm đặt mọi điều không tốt dựa trên quan điểm của riêng họ về công ty thì công ty đó sẽ sao đây? Có gì khác biệt chăng? Câu trả lời là không

Để minh chứng cho điều này, bất cứ ai cũng có thể vào trang web của Tổng chưởng lý của thành phố New York và thấy ngay được những lời chỉ trích của Elliot SpitZer về Merill Lynch được viết trên trang Web này. Bạn có thể mở ngay trang 11 ra xem hay gõ 4 chữ “Sh—“ để thấy được những lời chỉ trích từ phía công ty Merrill. Vậy Merrill đã phân tích những gì sau lưng các nhà đầu tư về những cổ phiếu mà họ đang tung hô rùm beng trên thị trường ( Hãy xem Bảng 3.1)

Chẳng hạn với cố phiếu đang được săn lùng gắt gao của công ty Infospace, theo tư vấn của Merrill là “MUA”.Tuy nhiên, đứng về phía công ty, trong những email được phát hiện ra bởi ông Spitzer, những người trong cuộc bên Merrill lại có quan điểm khác hẳn. Họ đã cho rằng Infospace là “một con thuyền mục nát”. Kết quả là các nhà đầu tư đã thất bại hoàn tòan khi tin tưởng và ủng hộ những phân tích của phía công ty Merrill, họ đã mất tới 95% các khỏan tiết kiệm, đầu tư, và tiền hưu trí khi Infospace trượt dốc.

Như ví dụ khác về cổ phiếu đang hot thuộc công ty Excite@home thì những lời tư vấn của Merrill là “ Hãy gom cổ phiếu lại!”. Trên sự nhìn nhận của riêng mình,Merrill đã viết trong email nói về Excite@home là một công ty chẳng ra gì. Kết quả là các nhà đầu tư tin vào Merrill đã mất đi 99,9% số tiền của mình khi Excite@home đi xuống

“Hãy gom cổ phiếu lại” cũng là lời khuyên của Merrill giành cho cổ phiếu của Media 24/7. Theo Spitzet thừa nhận thì ý kiến trong nội bộ công ty Merrill về cổ phiếu của Media chẳng khác gì đống giấy lộn. Kết quả là nhà đầu tư tin vào Merrill đã mất 97,6% số tiền của họ khi Media sa sút.


Tại sao họ lại làm điều này? Bởi vì Merrill Lynch kiếm được hàng trăm triệu USD lợi nhuận từ rất nhiều công ty khi thúc giục nhà đầu tư mua cổ phiếu của những công ty đó.Bởi vì những nhà phân tích nghiên cứu thị trường của Merrill nhận được hàng triệu USD từ những công ty mà họ biết thực ra chỉ là các công ty tầm trung.Và có lẽ chính xác hơn cả bởi vì những hậu quả tàn khốc không thể nào tránh được sẽ dồn cả vào họ, những người phản đối công chúng về những đánh giá của công ty.

Mối quan hệ hợp tác giữa Merrill Lynch với Enron cũng là một minh chứng kinh điển, Vào tháng 8 năm 1998, hai vị giám đốc điều hành của Merrill đã đưa một bản thông báo cho vị chủ tịch của công ty, chỉ trích gay gắt về một nhà phân tích của Merrill không có tinh thần hợp tác. Họ cho hay ông này đã mắc phải sai lầm trong việc đưa ra một bản định giá tài sản chưa thỏa đáng cho Enron và họ cũng cho rằng Enron phát triển không giống như những gì nhà phân tích này đã trình bày. Và họ đã kết luận rằng

BẢNG PHÂN TÍCH

Trong khi các nhà phân tích của Merrill Lynch đưa ra lời mời chào các cổ phiếu trên Internet tới thị trường với các đánh giá đầy khả quan, đi cùng với đó là những phân tích đậm chất cá nhân của họ nhằm làm giảm giá trị của những cổ phiếu đó và được họ bình luận trong những email mà các bạn thấy được ở bảng phân tích này. Ở cột “”Những đánh giá đã được công bố-Published Rating” là một mã đánh giá gồm hai chữ số giành cho từng cổ phiếu. Chữ số đầu tiên thể hiện đánh giá căn bản như là: 1-Mua; 2-Gom lại; 3- Chờ đợi; 4-Bán bớt ; 5-Bán hết. Không một cố phiếu nào theo sự phân tích và đánh giá của các chuyên gia là bán bớt hay bán hết đi, điều này được mình chứng tại bài “niềm tin bị đánh cắp”của Elliot Spitzet trên tờ New York State.
Ghi chú: Những từ ở trong ngoặc đơn là được tác giả thêm vào.
Source: www.oag.state.ny.us/press/2002/apr/MerrillL.pdf

Kết quả là, Merrill Lynch đã đánh mất sự hợp tác làm ăn trong lĩnh vực nghiệp vụ đầu tư ngân hàng đầy lợi nhuận với Enron.Điều này cũng là quá đủ cho Merrill, ngay trong mùa hè năm đó Merrill liền thay nhà phân tích trên bằng một nhà phân tích thị trường có khả năng làm gia tăng định giá tài sản của Enron trước giới đầu tư. Và thật ngọan mục, ngay đầu năm 1999 Merrill đã ký được một hợp đồng ngân hàng định giá công ty Enron thu về 45 triệu USD tiền lệ phí

Những kẻ biện hộ của Merrill Lynch tuyên bố Enron chỉ là một trường hợp cá biệt và cho rằng người phân tích đã viết những email hiểm độc được phát hiện ra bởi Mr.Spitzer chỉ là “một con sâu bỏ rầu nồi canh”. Nhưng nhứng điều tiếng trên là không chính xác. Các công ty này chỉ là vài tá công ty được Merrill dùng để chiêu khách.Những công ty này có thể thu được hàng tỷ USD từ phía các nhà đầu tư khi cổ phiếu của các công ty này lên giá. Bộ phận nghiệp vụ ngân hàng đầu tư đã được trồng hơn 150 triệu USD tiền lệ phí ứng với 52 giao dịch loại này, đây là khỏan tiền có được từ rất nhiều các công ty tương tự mà Merrill đang tung hô. Và những nhà phân tích đưa ra một định giá mua không thỏa đáng cũng đã bị gạn lọc – cùng với các khỏan tiền thưởng khổng lồ được đính chặt với số lượng cổ phiếu được bán ra. Trong khi đó, những nhà đầu tư cả tin đã trở nên trắng tay.

Còn về phía những người biện hộ ở Wall Street lại cho rằng minh chứng về Merrill Lynch còn tồi hơn nữa, và các công ty khác cũng xấu xa chẳng kém gì Merrill Lynch. Nhưng ai ngờ là những đánh giá trên cũng chẳng đúng.Tổng chưởng lý Spitzer bản thân ông cũng đưa ra lời cánh báo những việc làm của Merrill thật hèn hạ chẳng khác gì những công ty môi giới khác với những cam kết tài chính mất hết tính người.

Thực vậy, những cuộc điều tra mới của Salomon Smith Barney đã khiến những trò bịp bợm của Merrill được vạch ra qua những đối chiếu xác thực. Từ năm 1997 tới năm 2002, Salomon Smith Barney, một thành viên của CitiGroup, đã kiếm được hơn 809 triệu USD tiền bao tiêu cổ phiểu và chào bán trái phiếu cho các công ty viễn thông, cộng thêm 178 triệu USD trong việc tư vấn sát nhập công ty. Tổng cộng là hơn 1 tỷ USD tiền lệ phí Salomon có được, hơn đứt bất cứ một nhà môi giới nào khác trên Wall Street.

Cùng lúc đó, Salonmon và một siêu sao trong lĩnh vực truyền thông là Jack Grub đã đưa ra một lời bình rất thú vị trên thị trường Wall Street là đa số các công ty chính là một nguồn cung hàng tỷ USD như: AT&T; Verizon, WorldCom, Global Crossing, Level 3 Communications, Qwest Communications, và nhiều công ty khác nữa. Như tính tóan, các nhà đầu tư tin tưởng vào Salomon đã mất tới 778% lượng tiền đầu tư vào AT%T;92,6% vào Qwest,99%vào WorldCom,97% vào Level 3 Communication, và 99,9% một con số kinh ngạc lại rơi vào Global Crossing. Tổng kết lại thì 14 công ty viễn thông mà Grubman và Salomon khuyên các nhà đầu tư đã khiến khỏan nợ của họ khó lòng được thanh toán (có thể xem thêm chương 11 về bảo hộ phá sản)

Khắp mọi nơi trên Wall Street luôn xuất hiện những tấm gương tiêu biểu. Joseph Wolf của công ty UBS Warburg đã đưa ra 10 lần gợi ý trên quan điểm của một người mua về cổ phiếu của công ty Optical Communications Products từ tháng 10 năm 2000 tới tháng 7 năm 2002, thế nhưng cổ phiếu của công ty đã sụt giảm từ 18,88$/cổ phiếu xuống chỉ còn 1,19$. Linda Mutschler bên Merrill Lynch đã đưa định giá mức mua cổ phiếu của công ty Sprint PCS vào tháng 7 năm 2001 với một cố phiếu ăn 24,80$; sau đó, vào đầu năm 2002 cô đã nâng định mức giá cao hơn nữa cho một nhà đầu tư, và ngay sau đó giá cổ phiếu đã sụt giảm 50% giá trị. James Parmellee-một nhà phân tích của công ty Credit Suisse First Boston-đã đưa cho công ty Corvis Corporation (một trong những khách hàng bao tiêu của công ty của James) 11 định mức giá khác nhau từ tháng 10 năm 2000 cho tới tháng 11 năm 2001 khi đó giá cổ phiếu của công ty Corvis sụt giảm từ 26,69$ còn 1,77$/cổ phiếu, giảm 93,4% giá trị một cổ phía chỉ trong vòng chưa đầy một năm. Đây chính là những trò phỉnh hay nhất mọi thời đại. Ngay cả giới Mafia cũng phải nổi máu ghen tỵ.
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:41 pm

Chương 4: bong bóng vỡ

Sau này, một số nhà đầu tư đã khám phá ra cách xoay chuyển tình thế ở phố Wall để lấy lại tiền đã mất khỏi đanh mục đầu tư của họ.Nhưng trước khi học được điều đó, mối quan tâm chính của họ là sự công bằng.

đầu tiên là sự bình ổn nhưng sự phát triển lên cực điểm như những vụ bê bối được phổ biến rộng rãi. Các nhà đầu tư bắt đầu phản đối: “ những kẻ hèn hạ đã làm những việc xấu nhưng không bị xử lí” họ kêu
lên “ Uỷ ban quản lý chứng khoán (SEC) đâu rồi. liên đoàn công nghiệp Anh Quốc ( FBI) đâu rồi. Ai đó làm gì đi chứ?”

cuối cùng, các nhà càm quyền đã bắt những tên vô lại của tập đoàn Mỹ và phố Wall. Chúng siết chặt một chút các quy tắc kế toán ở mọi nơi. Họ đặt ra những nguyên tắc chỉ đạo mới cho những người phân tích, diều tra. Họ còn lôi kéo đc vài người trong việc còng tay, bắt giữ. John Rigas và các con trai ông Timothy và Michael, uỷ viên ban châps hành của hãng truyền thông Adelphia, đã có cuộc diễu hành ra khổi đó vào ngày 24-07-2002.Giám đốc tài chính cũ Scott Sullivan và người quản lý cũ David Myers của WorldCom , cũng như giám đốc điều hành cũ của Tyco Dennis Kozlowski, tất cả đều gặp một kết cục giống nhau. Các nhà đầu tư đều đều reo hò với sự vui vẻ.

Thật không may cho những nạn nhân, những hoạt động của chính phủ vẫn luôn luôn là quá ít và quá muộn. Những người bị hại đầu tiên đã bị mất hàng tỷ đôla , và không một nhà chức trách nào làm cho họ cmả thấy bình an trở lại.

Với các hãng ở phố Wall, tuy nhiên , nó lại là quá nhiều và quá sớm. Phí thủ tục mà các ngân hàng đầu tư dành cho chứng khoán bán ra công chúng lần đầu giảm xuống từ 51.5 tỷ năm 200 xuống còn 8.4 tỷ vào quý I năm 2002, giảm xuống 84%.Lợi nhuận của Merrill Lynch giảm còn 85% vào năm 2001. Lợi nhuận cũng sụt giảm ở Morgan Stanley, Lehnman Brothers và Goldman Sachs. Bây giờ,đúng là lúc họ cần nhiều nhất những lợi tức, những nhà điều chỉnh và quần chúng đã tấn công vào bản chất của chiến lược mở rộng thị trườngvà viẹc nghiên cứu sai lệch của các công ty.

Với một vài các công ty lớn nhất ở Mỹ, nó thậm chí còn xấu hơn.
Họ đã đặt những tài sản của mình lên trên trong sổ cách của họ, che giấu các khoản nợ lớn ra khỏi sổ sách ở các công ty chi nhánh ở nước ngoài, và có quá nhiều sự mất mát được bao phủ lên trên bởi bản lợi nhuận dự kiến trong những quỹ lương hưu người làm thuê của họ. Bây giờ, những quy tắc đã bắt đầu thay đổi, chúng được bỏ ra khỏi quỹ đạo. Thực vậy, thời kì rất trì trệ của các nhà máy đã mang lại thuận lợi trong những năm 1990 đã trở thành thòng lọng treo họ vào thời điểm gần năm 2000.UCBS là một điển hình cho những sự kiện xảy ra sau đó.

SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN
Vài tháng sau cuộc gặp đầu tiên của anh ta với người cố vấn, giám đốc điều hành UCBS chú ý đến cuộc gặp tương tự với một nhóm những người giống nhau, đến từ những công ty kiểm toán giống nhau.

“ Chúng tôi là những kiểm toán viên – không phải là những cố vấn” một người công bố trước lời gợi ý đầy khôn ngoan. “ chúng tôi muốn tăng một vài câu hỏi về những thực tiễn kế toán của UCBS”

“ Chúng tôi là những kiểm toán viên – không phải là những cố vấn” một người công bố trước lời gợi ý đầy khôn ngoan. “ chúng tôi muốn tăng một vài câu hỏi về những thực tiễn kế toán của UCBS”

Tức thì Paul Johnston đưa tay lên phản đối “ Đợi chút! Tôi biết tất cả những chuyện này. Chúng hợp pháp một cách hoàn hảo”

Những thương nhân lén lút trốn những cái liếc nhìn lẫn nhau và một người trả lời : “ trông bề ngoài thì có thể. Nhưng thực tế thì không. Hãy cầm lấy những quan hệ đối tác và những chi nhánh công ty khác, cho ví dụ”.

“ Đừng đưa cho tôi bất kì nhân viên báo chí chỉ chuyên về quảng cáo ở đây” Johnston phản đối. “ Những công ty chứng khoán khác mà tôi biết có hàng trăm sổ sách công ty bên ngoài và các chi nhánh ở hòn đảo Cayman, được đặt tên là Bermuda. Chúng ta được chi tiết gì khi so sánh. Chúng ta sở hữu ít hơn 49% mỗi một đơn của chúng.Đó là lí do , tôi đã cho toàn bộ những thứ này chỗ đầu tiên trong lời cầu nguyện của mình. liệu nó có phải là quy tắc?”

“ Đúng , nhưng nó chỉ là một phần của quy tắc thôi.Có rất nhiều trạng thái của quy tắc mà nếu bạn có quản lý hiệu quả việc điểu khiển của chi nhánh công ty. Nó không quan trọng như những thứ nhỏ bé mà bạn có.Thậm chí nếu bạn có đúng 1%, bạn sẽ được củng cố. Những công ty khác mà bạn nói như Tyco, Enron … có những nhóm luật sư lớn làm việc ngoài giờ về ciệc tạo ra một bề ngòai hợp phápcho xác nhận không điều khiển được. Bạn thậm chí không có một mẫu mã bề ngoài”

LÀM SÁNG TỎ SỰ GIAN DỐI TRONG LƯƠNG HƯU
Các kiểm tóan viên đã chuyển qua vòng quanh bản sao của các bảng tính lớn trong máy tính, đã thấy sự kì lạ quen thuộc: đó là bản sự kiến lương hưu cho người lao động. Giám đốc điều hành đã hít 1 hơi dài. Ông ta biết rằng nó đang đến. Bản thân ông ta đã sợ ngay từ đầu và bây giờ nỗi sợ hãi xấu nhất của ông ta đã trở nên thâm căn cố đế.

“ Tôi không nói với anh” ông ta nói với một trong các kiểm tóan viên “ đây là thị trường cổ phiếu lớn đã tăng trong cuối những năm 90 tạo nên một bình vàng chưa từng có cho UCBS, và anh đề cập đến nó như chưa từng có trước đây. Bây giờ thị trường cổ phiếu lớn đã sụt giá vào đầu những năm 2000 làm biến đổi tiền của bạn trở thành đứng đầu và nó là một cú chết nặng bởi nó làm phá sản số tiền lãi của công ty sắp tới”

“ năm 2000” ông ta tiếp tục “ thị trường sụt mạnh, xu thế tiền của quỹ lương hưu của bạn sẽ trống và chúng ta lờ nó đi, thị trường sụt giảm trở lại vào năm 2001 và chúng ta cũng lờ nó đi. Bây giờ, thị trường có vẻ suy giảm, chúng ta không thể lờ nó đi thêm nữa. Chúng ta phải bắt đầu thừa nhận sự thâm hụt này. Đúng , chúng ta có thể kéo dài nó thêm thời gian, nhưng nếu thị trường suy giảm xa hơn” Giọng ông ta kéo dài ra , lời gợi ý của hậu quả khủng khiếp.

Johnston nghĩ về một lời bào chữa: UCBS đúng là một trong hàng trăm công ty về thị trường chứng khoán suy sụp đã tác động trong cách thức giống nhau. Ông ta nghĩ rằng có thể đúng, có thể các nhà đầu tư không muốn lựa chọn UCBS để bán. Vì vậy nửa giờ tiếp theo sự thảo luận đã quay về sự khủng hoảng của tiền lương đã mở rộng ở tòan quốc.

Trong số 500 công ty của Mĩ đc điều tra bởi cố vấn của hãng Walson Wyat. 87% nói tiền lương hưu của họ đã được trả đầy đủ vào đầu năm 2002. Vào đầu năm 2002, số này đã giảm xuống còn 37% và rằng trứơc đó S&P 500Index đã giảm bởi 20% khác của năm đó. Tổng thâm hụt đúng trong số 234 công ty trong S&P 500 đã có sự định nghĩavề bản ké hoạch của phúc lợi, nó đã trở nên lớn hơn 78 tỷ đô. Nhưng mặc dù con số lớn này đã căn cứ vào sự thừa nhận rất lạc quan về thị trường và nền kinh tế.

General Motors là ví dụ, đã có một số dư mở rộng tiền trợ cấp, từ 4,5 tỷ đô năm 1999, nhưng đã đánh nhẹ vào mạng lưới tiền thiếu hụt của 12,6 tỷ USD vào cuối năm 2001. Ford đã đi từ thặng dư 8.2 tỷ USD năm 1999 đến thiếu hụt 2.4 tỷ USD. Delta Airlines đã có một số thặng dư nhỏ trong quỹ lương hưu là 148 tiệu USD năm 1999, nhưng vào năm 2001, nó đã thành thiếu hụt 2.3 tỷ USD.

Hầu hết lúc nào cũng vậy, khi các công ty tính tóan sự phát triển của tài sản lương hưu trong danh mục vỗn đầu tư, họ cẩn trọng làm sai lệch các khoản nợ tiềm tàng bằng 3 con đường:
• Họ đương nhiên cho rằng thị trường chứng khóan sẽ được bù lại trong năm hoạt động tới, thậm chí nếu việc lấy lạiđó không pjải là một điều hiển nhiên.
• Họ cho rằng với sự phát triển vững chắc của nền kinh tế thậm chí nếu đó là khả năng thật sự của một sự lụi tàn khác.
• Họ cho rằng vỗ đầu tư lớn sẽ quay trở lại, thậm chí nếu dòng vốn quay trở lại đó quá xa xôi.

Họ sống ở thế giới trong mơ mà không ai đánh thức được họ. Nhưng khi thu được sự biến đi như gió thoảng qua trên giấy tờ , đso là địa ngục cho việc thanh toán.

Hòan tòan kích thước của vấn đề là không thể tin được. 2/3 của bản báo cáo lương hưu của công ty S&P 500 là màu đỏ. Với nhiều công ty, 13 nợ quỹ trợ cấp lương hưu hơn 1 tỷ USD: General Motors (12.7 tỷ USD), Exxon (7.2 tỷ USD), Ford (2.5 tỷ USD), Delphi(2.4 tỷ USD), Delta Airlines(2.4 tỷ USD), United Technologies(2.3 tỷ USD), AMR(1.9 tỷ USD), Pfizer(1.3 tỷ USD), Procter&Gamble(1.1 tỷ USD); 4 nợ 1 tỷ là : Chevron Texaco, Pharmacia, Goodyear, Raytheon; và 32 mợ hơn nửa tỷ. Hơn 100 công ty nợ khoảng 100 triệu USD hoặc hơn.

( Xem bảng 4.1)
Khi thi trường chứng khoán tăng giá, một vài công ty lớn tìm ra những con đường khác nhau để thổi phồng lợi nhuận bởi sự vận đọng quá mức trong quỹ lương hưu nhân viên. Khi thị trường chứng khóan sụt giảm, tuy nhiên, đso là chiến lược mang lại kết quả ngòai sự mong đợi : Vào cuối năm 2001, họ có sự thiếu hụt lớn trong quỹ lương hưu đe dọa đến việc giảm nhiều trong lợi nhuận kiếm được, và năm 2002, sự thiếu hụt đã trở nên lớn hơn.
Dữ liệu: Bản cáo bạch công ty.

CÁCH MÀ CÁC KIỂM TÓAN VIÊN DÙNG ĐỂ BAO CHE
Cuộc họp của Johnston’s với các kiểm tóan viên kết thúc trong sự gay gắt. Họ muốn công ty sẽ làm sạch và bắt đầu ngay lập tức vào việc điều chỉnh quy mô lớn lợi nhuận. Ông ta muốn hoãn lại ngày thanh toán. Ông ta hiểu một cách đầy đủ rằng tất cả các lí lẽ của họ vàviệc đồng ý với những điều đó. Nhưng ông ta chưa sẵn sang để đối mặt với việc chắc chắn rằng sẽ mất đi khoản tài chính trong việc đặt cược.

Ông ta vội quay trở lại bàn cua rmình trong khi thư kí nối liên lạc khẩn cấp với một đại cổ dông trong coong ty kiểm toán. “ đầu tiên, người được hỏi y skiến cua rbạn sẽ nói cho chúng ta biết cần phải làm gfi, làm như thế nào, và tại sao tất cả đều hòan hảo trong phạm vi những quyền lợi hợppháp của chúng ta”, Johnston quát tháo một cổ đông với những lời lẽ chua cay ,“Sau đó, nhiều tháng sau, những kiểm tóan viên cua rbạn sẽ quay trở lại và nói với chúng ta về mọi thứ người bạn hỏi ý kiến nói với chúng ta để làm đã sai. Tốt, bây giờ là sự quay trở lại của tôi nói với anh rằng: mỗi khi bạn nói với nhóm nhỏ của bạn về máy điếm tiền để chờ … mỗi khi bạn đồng ý với sổ sách của chúng tôi hoặc bạn có thể chạm nhẹ vào người cố vấn của bạn thuê tạm biệt”

Và nó đến nỗi mà sau khi những kiểm tóan viên của UCBS công bố những vấn đề tính tóan quan trọng, họ chỉ làm hành động là viết những điều cần nhớ lên hồ sơ. Ở những điều cần nhớ, họ khiển trách ban quản lývề việc tính tóan thủ thuật quảng cáo trong qúa khứ và nâng phát hành thành việc thực hành đáng ngờ ở đây. Họ để những ghi nhớ vào đúng nơi và nso chưa bao giờ được xem lại .

Trong lúc đó, trong báo cáo chính thức về cổ đông, kiểm tóan viên làm những điểu khỏan bổ sung rất khác biệt. họ đưa UCBS một hối phiếu trơn trong sạch, và họ chứng nhận rằng kết quả về tình hình tài chính hiện tại là “ công bằng trong những tài liệu quan trọng”. Họ không nói gfi về những điều thực sự họ lo lắng.

Có phải họ làm việc này theo trách nhiệm hay cảnh giác công khai? Đúng, nhưng đó không phải là vấn đề họ lo lắng. Họ có thể bị tố cáo khi tín nhiện công khai bị vi phạm nghiem trọng cùng với gian lận? Đúng, nhưng nó cũng vậy, không phải là mối lo lắng cua rhọ. Họ có thể nhượng bộ cấp trên của học và với những lý do đưa ra để che đậy.

Một vsi dụ thực tế: Hiệp hội Waste Managementn đã được đặt tên trong một vụ kiện lớn của SEC về thủ đoạn trong tính tóan về việc đã ngăn cản cong ty giấu 1,7 tỷ USD trong chi phí từ 1992 đến 1997 trong lúc phải thực hiện bồi thường là 28,4 tỷ USD. Kiểm tóan viên cua rnó,ở Arthur Andersen, đã yên lặng thưa kiện ở thời điểm này. Nhưng khi phản đối của họ bị bác bỏ bởi nàh quản lý, tuy thế mà họ tán thành công bố về tài chính công ty.

CÁC KIỂM TÓAN VIÊN QUÊN KHÔNG CẢNH BÁO VỀ VẤN ĐỀ TRONG THANH TÓAN TRONG TẤT CẢ CÁC TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP GẦN ĐÂY

Adelphia Communications, công ty lớn về cáp tivi, đã phơi bày vào đầu năm 2002 về khoản nợ đặc biệt 2,3 tỷ USD về cả những tấm phiếu chưa bao giờ cân nhắc. Nhứng nhà đầu tư đã thấy bất lực khi phần chung vốn của họ từ 25 USD vào 11 tháng 3 xuống còn 11.83USD vào 2 tháng 4, việc thanh tóan nợ nhiều hơn một nửa của sự giàu có của họ trong ba tuần . Chỉ một tháng trước khi bị phơi bày, những kiểm tóan viên, ở Deloitte và Touche, đã đưa ra một tờ phiếu sạch. Vào 25 tháng 6, Adelphia đã sắp đặt vấn đề thứ 11, thanh tóan 100% nợ cho các nhà đầu tư.

Xerox đã tuyên bố vào giữa năm 2002 về việc sẽ trình bày lại về 2tỷ USD tiền kiếm được đã gia hạn từ năm 1997. Việc trả cho SEC 10 triệu USD là rất khả quan, đây là một điều lớn nhất trong lịch sử của họ. Sau 13 tháng, những kiểm tóan viên của công ty, ở KPMG, đã đưa ra một tờ phiếu sạch( a clean bill of health).

Enron, WorldCom và tối thiểu 29 đòan thể bị liên lụy trong việc hệ thống kế tóan không theo quy tắc đã lấy được tờ phiếu sạch từ những kiểm tóan viên của họ không lâu trước khi những vấn đề của hệ thống kế tóan bị phát giác. Những công ty này không nhỏ bé (these companies were not small fly-by-nights), chúng lớn, những công ty gia đình với sự kết hợp cao nhất về giá cả trên thị trường của 1.8 nghìn tỷ USD
( Xem bảng 4.2)

Tuy nhiên, những danh sách được thể hiện ở bảng 4.2 đã tiêu biểu cho đỉnh của một bảng băng trôi. Nó đã không tính đến những công ty mà sự quản lý của nó để che giấu đi sự chi phối của nó, hoặc bao gồm hàng trăm công ty đã gây trở ngại cho việc hợp pháp hóa sổ sách.

Những bệnh của hệ thống kế tóan vừa được chữa khỏi đã không giới hạn công bằng cho việc bọc những sơ yếu lí lịch tốt như việc crất nhiều người nghe được thông tin về Enron hoặc WorldCom. Nó đã giống như một dịch bệnh của dân tộc khi tràn đến khắp mọi hướng của đòan thể Châu Mỹ.

Và nó cũng giới hạn đúng ở Arthur Anderxen, hệ thống kế tóan đầu tiên của công ty không bị kết án mãi mãi về sự gian lân. Hòan tòan ngược lại, việc thừa nhận những đáng nghi trong hệ thống kế tóan là tiêu chuẩn của các thủ tục họat động ở mọi nơi của hệ thống kế tóan hãng Big Five ở Châu Mỹ. Nó bao gồm không chỉ Arthur Andersen mà còn cso cả Deloitte & Touche, Ernt & Young, KPMC và PricewaterhouseCoopers. Tất cả những thứ đơn lẻ sẽ chịu trách nhiệm cho việc kiểm tra những rắc rối của công ty trong việc hệ thống kế tóan bị lỗi .
( Xem bảng 4.3)

Đương nhiên là chuyện hệ thống kế tóan bị lỗi chỉ là thứ yếu, nhữngkiểm tóan viên sẽ không chịu trách nhiệm về việc giám sát vấn đề này. Tuy nhiên trong sự bao bọc tương phản thì quá lớn về việc điều chỉnh sau đó cua rsự tàn phá số tiền kiếm đc của công ty và sự tàn phá củasự phân chia giá cả. Vì vậy nó thách thức sự tưởng tượng về viẹc tin tưởng rằng mọi người sẽ buộc tội với công việc thanh tra một cách triệt để về sổ sách của công ty cần phải được giữ ở trong bóng tối về việc thóat ra gần với vùng mờ mờ rộng lớn.

GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ: A PATCHWORK OF COSMETIC FIXES

Suốt cuối những năm 90, nguyên Chủ tịch ủy ban giao dịch chứng khóan Arthur Levitt cố gắng sửa chữa những vấn đề trên. Ông đề xuất ở Quốc hội Hòa Kỳ để thúc đẩy việc ngừng lại trong sạch giữa cố vấn kinh doanh và kiểm tra kinh doanh nhưng quốc hội đã gạt đi những lo lắng và đề nghị hạ xuống của ông.

Cuối cùng vào năm 2002, quốc hội đã thông qua Hệ thống kế tóan chung công ty sửa đổi và hành động bảo vệ nhà đầu tư, nó đã gây lên nhiều khó khăn cho các công ty trong việc lập sổ sách của họ.Luật mới này là một bước trong sự điều khiển đúng đắn nhưng vẫn xa so với thực tế. Nó không thúc đẩy cho sự phân chia hòan tất giữa kiểm tra và cố vấn kinh doanh – một nguồn để giải quyết vấn đề . Nó đã không xóa bỏ được động cơ làm giàu của các CEO về quyền lựa chọn các cổ phiếu giá rẻ. Nó cũng không xóa bỏ được những xung đột khó lường và phổ biến về tiền lãi ở phố Wall. Thậm chí nó không có địa chỉ cho việc hệ thống kế tóan có lỗi rất lớn như thế của sự lôi kéo của quỹ lương hưu của người làm công .

Trong khi đó, ủy ban chứng khóan vẫn cố gắng giải quyết trục trặc của hệ thống kế tóan quốc gia do sự đòi hỏi của các CEO của hàng trăm các công ty lớn để chứng nhận giá trị công ty rằng bản tuyên bố tài chính của họ là đúng và xác thực. Đó là một hành động tốt, nhưng nó đã quên mất mục tiêu cơ bảnlà : upposedly “legal” manipulations.
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:41 pm

CHƯƠNG 5: Một bộ toilet du lịch trị giá 17 nghìn đô la Mỹ

Đã quá hai giờ đêm nhưng Paul E.Johnston, một CEO của UCBS vẫn không tài nào ngủ được.

Từ trước tới nay, trong hoạt động kế toán sôi động của công ty mình, ông chưa bao giờ thấy quá nhiều sai sót lằng nhằng,vì vài tháng trước đây, ông đã tìm ra cách giải quyết. Hay cả nỗi lo việc công ty thiếu tiền chi trả cho các hoá đơn đến hạn cũng là vấn đề ông có thể xử lý.

Điều đang thực sự day dứt trong thâm tâm ông là tiếng cô con gái ông vang vọng trong cuộc nói chuyện điện thoại vài giờ trước. Cô đã gắng hỏi ông một cách đơn giản có thể:” Những tin đồn đó có thật phải không cha?”. Để rồi lại phải gào lên: “Thực sự thì đang có chuyện gì xảy ra vậy cha?”. Nhưng khi ông cất tiếng nói thì cô lại ngắt lời ông, và từ chối nghe bất cứ thông tin vào ẩn dấu bên trong.

Con gái ông cũng tiết lộ rằng cô đã mua cổ phiếu của UCBS, nhưng cô lại không nói rõ mình đã mua bao nhiêu, và cố gắng nhân mạnh rằng đó không phải là khoản tiền lớn. Tuy nhiên, Johnston cũng hiểu rằng số tiền đó cũng khá lơn. Lấy hết can đảm, lần đầu tiên trong bao nhiêu năm qua, ông đã nhận thấy mình đã làm điều mà ông thế sẽ phải tránh né: đó là nói chuyện trực tiếp với một cổ đông hiện hữu ( outside holder), và người đó chẳng ai khác lại chính là con gái của ông.

Vào nhiều ngày sau đó, Johnston cũng không tài nào ngủ được. ông có thể tưởng tượng thấy cô con gái mình ngồi ở hàng ghế đầu tiên trong hội nghị cổ đông hàng năm, lo lắng chờ đợi ông phát biểu. Hoặc, ông cũng có thể tưởng tượng ra con gái mình đối diện trong bữa tối khi cậu con rể nhìn ông đầy trách móc.

Chẳng tài nào ngủ được, ông mở kênh CNN, và một số bản tin khác. Cứ mỗi tối, lo lắng trong ông lại dấy lên. Ngày qua ngày, ngay trên trang nhất, ông có thể nhìn thấy bạn của của mình hay cả đối thủ nữa đang bị dẫn giải trong chiếc còng số 8. Để rồi ông hối hả tìm kiếm các dòng tít trên tờ thời báo New York online.

1.Worldcom tiết lộ rằng công ty này đã dấu nghẹm đi các khoản chi tiêu, và thổi phồng lượng thu tiền mặt của công ty lên tới 3.8 tỉ đô la Mỹ ( theo Andrew Ross Sorkin, tờ thời báo New York ngày 26/2/2002). Worldcom là một công ty chuyên trở đường dài lớn thứ hai quốc gia. Công ty này cho biết rằng nó đã khai man luồng tiền mặt lớn hơn 3.8 tỉ đô suốt 5 quý gần đây, và dường như đây là một trong những trường hợp làm giả sổ sách doanh nghiệp lớn nhất. Đã từng có giá trị cao nhất là 115.3 tỉ đô vào tháng 6.1999 và đạt giá trị cổ phiếu lên tới 62 đô, Worldcom giờ đây chỉ là một doanh nghiệp có giá trị dưới 1 tỉ đô. Trước khi sự việc được vạch trần, cổ phiếu của công ty này đã giảm hơn 94% trong năm, giờ đây nó xuống còn 26cént sau vài giờ giao dịch đêm qua. Theo công bố đưa ra vào sáng sớm hôm nay, Ủy ban chứng khoán cho biết rằng những phát hiện này đã khẳng định rõ những sai sót sổ sách chưa từng có tại Worldcom.

Vài ngày sau đó tờ Thời Báo cũng lại khiến ông phải rùng mình khi ông đọc được một câu truyện của Barnaby J.Feder và David Leonhardt. Tên tuổi của các nhà điều hành và thành viên ban quản trị Worldcom đã được trệm ngay lên mặt báo. Rõ ràng đó là tên tuổi của họ cùng với nhiều dữ liệu về những khoản tiề họ đã kiếm được từ việc bán cổ phiếu của công ty. Thậm chí khi cổ phiếu này đang giảm họ vẫn cứ tiếp tục thực hiện nhiều sai sót doanh nghiệp lớn nhất trong lịch sử cùng với việc không ngừng động viên công chúng mua những cố phiếu đang trên đà sụt giảm.

Ngay trên mặt báo là Bert C.Robert, chủ tịch ban quản trị, người đã bán cổ phiếu của mình vì 22.8 triệu đô. Tiếp đến là Scott D.Sullivan,giám đốc tài chính có được 44.2 triệu đô; James Quell Crowe, nguyên chủ tịch, nẫn được 24.7 triệu và Gerald H. Taylor, nguyên CEO của MCI có được 21.8 triệu. CEO John W.Sidgmore thậm chí kiếm được nhiều hơn với số tiền hơn 87.3 triệu đô và Lawrence C.Tucker, là một thành viên của ban quản trị vượt trội hơn tất cả, đã thu về 110.8 triệu đô một cách dễ dàng.

Sau đó, nhiều nhà đầu tư cũng nhận ra những thủ đoạn bẩn thỉu làm giày bất chính của người trong Worldcom trong khi chính ọ lại p hải chịu đựng nhiều sức ép từ việc kinh doanh thua lộ. DO vây họ rất muốn những kẻ vô lại này bị bỏ tù. Họ muốn thấy sự trừng phạt.

2. Các cựu quan chức Worldcom bị buộc tội vì những hành vi gian trá ( theo Kurt Eichenwald, tờ thời báo New York ngày 2/8/2002). Hơn nữa, hai nguyên giám đốc điều hành của tập đoàn viễn thông quốc tế khổng lồ Worldcom cũng đã bị buộc tội do thực hiện những gian lận sổ sách lên tới hàng tỉ đô. Chính những tính toán này dã nghẹm đi khoản thâm hụt khổng lồ của công ty và khiến cho doanh nghiệp này rơi vào tình trạng phá sản.

Các nhà điều hành: Scott D.Sullivan, nguyên giám đốc điều hành của Worldcom và David F.Myers, nguyên giám sát viên đã bị bắt vào 7h sáng ngày hôm qua tại cơ quan F.B.I ở Lower Manhattan. Theo nguồn tin nhanh cho biết họ đã bị bắt công khai tới toà án Liên Ban.

Hàng đêm, sau khi tất cả các nhân viên ra về, Johnston đổ sầm người trên ghế sofa phía sau phòng làm việc, chộp lấy điều khiển TV, bồn chồn tìm kiếm các kênh tin, từ CNN, Fox, MSNBC và rồi nhiều kênh tin tức khác nữa. Hết kênh này tới kênh khác, ngày càng nhiều người quen của ông xuất hiện trên màn hình, bị cảnh sát dẫn giải, truét lời nói lăng mạ vào đám phóng viên, lê bước trong tủi nhục rồi bị kết tội để bước vào cuộc đời tăm tối.

Trên tờ báo đó, David B.Duncan, một kiểm toán viên hàng đầu tại Arthur Andersen, cũng đã bị buộc tổi vì cản trở pháp luật, biện hộ cho những hành vi sai trái của mình… Tiếp đến là Scott D.Sullivan, nguyên giám đôc tài chính hàng đầu và David F.Myers, nguyên giám sát viên của Worldcom đều bị buộc tội về việc gian lận và làm giảm trị giá cổ phiếu….. Và Samuel D.Waksal, nguyên điều hành chính cảu tập đoàn IMCLONE cũng bị buộc tội vì giao dịch nội gián.

Cũng đập vào tai Johnston rằng:’ John J.Rigasm, 78 tuổi, người thành lập và là nguyên điều hành Adelphia, cùng với hai trong số người con trai đã bị bắt tới Nhà Tù Liên Bang lúc 6h sáng ngày hôm qua tại một căn hộ ở Manhattan, vùng Upper East ( xem bảng 5.1).

“ Bên nguyên thì vẫn cố gắng đấu tranh rằng chính những người này đã sử dụng tiền của công ty không chính đáng từ những khoản cho vay cá nhân để mua cổ phiếu, xây dựng sân golf trị giá 13 triệu đô, để đưa gia đình đi du lịch tới Châu Mỹ…”
“ Đã từng coi là chuyện hiếm thấy nhưng việc các nhà điều hành hàng đầu đang phải đối mặt với tù tội giờ đây là chuyện bình thường trong nhiều tháng gần đây…”

“Samuel D.Waksal, nguyên là giám đốc điều hành của công ty hệ thống sinh học IMCLONE, cũng đã bị bắt tại nhà riêng ở Manhattan và hôm nay đã bị buộc tội dính lứu đến giao dịch chứng khoán ngầm.”

“ Spitzer đã kiện 5 giảm đốc điều hành lĩnh vực viễn thông vì các khoản thu cá nhân bất chính- trong đó có nguyên CEO của Worldcom là Bernard J.Ebbers, nguyên CEO của McLeod-Mỹ- ông Clark McLeod; ngài chủ tích của Qwest- ông Phillip F.Anschutz,rồi cả nguyên CEO của Qwest- ngài Joseph P.N.nacchio, cồng thêm cả người thành lập và chủ tịch của Metromedia Fiber Networks- ông Stephen A.Garofalo….”

“ L.Dennis Kozlowski là chủ tịch kiêm điều hành chính của khối TYCO quốc tế cũng là bị buộc tội….”

Vào hồi 4h sáng này 18/9/2002, Johnston cũng đã phải giật mình khi ông đọc tờ New York online và thấy bài báo dưới đây:

Tyco International là nơi nhiều lãnh đạo hàng đầu bị buộc tọi phá hoại công ty. Ngày hôm qua TYCO này cho biết rằng một mạng lười lừa đảo và tư lợi bất chính đã bị vạch trần ngay tại công ty, và hành vi này đã lan khắp đội ngũ quản lý của công ty này.

Báo cáo của TYCO chỉ ra rằng nguyên CEo của công ty là L.Dennis Kozlowski đã tạo ra được một thói quen doanh nghiệp chìm đắm trong men tiền và chi tiêu hoang phí để rồi âm thầm xoá khoản nợ trị giá 10 triệu đô cho hàng tá lãnh đạo. Kozlowski đã phớt lờ ban giám đốc, ông đã đưa 56 triệu đô cho 51 quản lý, cộng thêm 39 triệu đô để thanh toán thêm các khoản tiền thuế tiền thưởng. Lần lượt, số tiền này được phân định rõ ràng để thanh toán các khoản nợ mà công ty đã sử dụng.

Hiệu giặt đồ của TYCO dường như đã trút tất cả trách nhiệm lên đầu Johnston. Cùng với việc chỉ ra trước hàng triệu công chúng Mỹ trên truyền hình, ngay trên thời báo New York online là hàng loạt các vật dụng cá nhân mà CEO này đã mua với số tiền các nhà đầu tư uỷ thác cho công ty này.

Thuyền buồm, phí Frers Đức: 72.000đô
Bộ Toilet du lịch: 17.000đô
Chuồng chó: 15.000 đô
Rổ khâu: 6.300 đô
Màn cửa phòng tắm: 6.000đô
Hai bộ thảm: 5.960đô
Hai thùng rác thiếp vàng: 1.650

MỘt thùng rác trị giá 1.650 đô ư? Một bộ toilet du lịch trị giá 17.000 đô cơ đấy. Tất cả đều được mua bằng tiền của các cô đồng à? Ông không thể chịu đựng đựơc hơn nữa một dòng tít hay một tin nhanh nhu thế này, và ông thực sự rất lo lắng về vấn đề này.

Một phần là do sợ hãi, ông có thể thấy rõ ràng rằng công ty của chính mình- một công ty thực sự sẽ chói lọi dễ dàng bằng thị trường chứng khoán, và rồi cũng nhận được những lời chỉ trích trên các dòng tít , để ông có thể hình dung ra được gương mặt của mình giống như hình ảnh của một gã khờ. Tuy nhiên, ngay sau đó , mọi cảm giác bồn chồn của ông đều được thay thế bằng niềm tự hào. ông không bao giờ lấy hết tiền thưởng giành cho lãnh đạo được đề xuất từ phía các nhà cố vẫn và điều này đã được ban giám đốc tán thành. ông cũng chưa từng một lần vượt quá vòng pháp luật đã được hạn định từ phía các chuyên gia cố vấn.

Tuy nhiên ông cũng cảm thấy mình có tội và yếm thế. ông từ chối gian lận số tiền trợ cấp lương hưu tại toà. Ông ước mình chưa bao giờ gây áp lực cho các kiểm toán viên để phớt lờ mối quan tâm của họ.Nếu ông có thể quay trở lại thời điểm này vài năm trước thì ông có thẻ vạch ra một kế hoạch cho riêng mình, thậm chí điều này đồng nghĩa với các hợp tác ngắn hạn và những hy sinh mang tính cá nhân hay thậm chí nếu điều này có làm cho số lượng vốn huy động ngày một giảm đi, giá cổ phiếu của công ty này ngày một sụt giảm , khiến cho các nhân viên thất vọng và giảm số thu của các cổ động. Và khi đem ra so sánh, đáng nhẽ ra lợi ích về sự sáng suốt, khả năng kiểm soát, lòng tự tọn về lâu về dàu có thể khiến những vấn đề đó chẳng có gì đáng nói.

Và cú sốc cuối cùng ông gặp phải đó là khi vợ chồng ông nhận ra rằng con gái Linda của ông và anh chồng đã mất tiền vào đúng khoảng thời gian vô cùng khó khăn.Thậm chí trước cả khi những tin tức tồi tệ hơn lọt ra ngoài,họ đã đầu tư 80.000đô vào cổ phiếu USBC, và đã mất 75% số tiền. Hơn nữa, họ còn phải gánh chịu thêm một khoản thua lỗ nữa khi họ đầu tư một khoản 80.000 đô khác vào cổ phiếu viễn thông gồm có Global Crossing, Qwest và Worldcom.

Vợ ông đã gắt lên rằng: “ Ngoại trừ ngôi nhà, Linda và Gabriel đã thực sự khánh khiệt”. Chính điều đó đã khiến ông nghĩ rằng mình là kẻ đồng loã. Bà còn thêm thắt:”Cũng như mọi lần thôi, nếu chúng từ chối các khoản giúp đỡ tài chính, chúng có thể sẽ lấy sạch khoản tiề học ít ỏi của bọn trẻ. Và từ giờ chúng sẽ chẳng có một xu”. Johnston đổ gục người xuống.

Vài ngày và vài tuần tiếp sau đó, vị CEO của UCBS này đã phải quay cuồng chịu đựng từng lời nói một: cố gắng để bác bỏ, hay thậm chí đó là nỗ lực để thừa nhận lỗi lầm riếng của ông khi làm tiêu tan cuộc sống của hàng nghìn nhà đầu tư, để rồi cùng bước đi khó khăn nhất là lấy lại được sự bình tầm cũng như đảo ngược những cảm xúc đó thành hành động thiết thực.

Với đôi bàn tay run rẩy, và để rồi ngày một nhiều quyết tâm hơn, ông đã phác thảo ra được mốc thời gian để bắt đầu quá trình xua đuổi đi nhứng bóng ma đang ám ảnh mình. ông có thể thay đổi, đó là những thay đổi to lớn, chứ không phải là những thay đổi mỹ miều mà các PR có thể cắt dán trên những tờ tin tức hay đài báo ở kênh Business wire. Chúng là điều cốt lõi trong hệ thống, chiến lược và cả lối sống văn hoá của doanh nghiệp.

ÔNg đã quan sát nhiều nhà lãnh đạo như Warrn E.Buffettm người đã mất nhiều thời gian loại từ quyền lựa chọn các khoản tiền đến bù giành cho giám đốc điều hành. Ở thành phố New York, ông đã tham dự một buổi hội thảo của Uỷ Ban từ thiện với doanh nghiệp tư nhân. ông ngồi ở hàng ghế sau cùng với Buffett, cựu chủ tịch của FED- ngài Paul Volker, và nhiều người khác nữa đã cùng để xuất ra một cuộc cải cách triệt để cho các công ty Mỹ- hay việc công khai số lượng cổ phiếu bán ra của ban giám đốc, hay một hành xử đồng nhất với các quyền chọn mua cổ phiếu như các khoản chi tiêu, các cổ đông chỉ chấp nhận điều này trước khi quyền chọn mua cổ phiếu được định lại giá, khoảng thời gian nắm giữ các cổ phiếu này bắt buộưc phải lâu hơn trước khi các nhà lãnh đạo bán cổ phiếu của riêng họ và nhiều cổ phiếu khác nữa.

Ông muốn liều lĩnh tham gia vào nhóm các nhà lãnh đạo doanh nghiệp này để được báo chí và công chúng coi là một nhà lãnh đạo trong công cuộc cải cách doanh nghiệp. Thậm chí táo bạo hơn, ông muốn lảng tránh nhìn thấy chính tên mình trên những dòng tiêu đề chết tiệt kia. Và khi mọi cái đã được thực hiẹn, việc lấy lại danh tiếng sẽ không quá muộn với Johnston. Tuy nhiên, để cứu được UCBS thì đã quá trễ.

Nợ và sự sụt giảm của lạm phát.

Nhiều khó khăn của UCBS không đơn giản giới hạn trong các vấn đề về kế toán, sổ sách đơn thuần. Nếu không, công ty này đãng nhẽ ra có thể thực hiện điều chỉnh kịp thời, các cổ đông cũng có thể có những điều chỉnh khi cổ phiếu bị giảm từ 30 hoặc 40%, và khủng hoảng rồi cũng sẽ qua. Những vấn đề về kế toán cũng chỉ đơn giản là phần đầu của tảng băng trồi.

Vấn đề chính là UCBS đã bị kẹp giữa khoản nợ đến kỳ trả và sự sụt giảm của lạm phát- một điều kiện cho giá cả sản phẩm của công ty giảm. Nếu UCBS không rơi vào cảnh nợ nần thì có thể nó còn tồn tại, và có thể thanh toán hết các khoản nợ với khoản tiền mặt từ doanh thu. Thêm vào đó, công ty này có thể vay từ Peter để thanh toán cho Paul.

Nếu doanh số bản ra và giá sản phẩm của công ty không sụt giảm khi lạm phát đi xuống thì UCBS có thể hoạt động khá tốt. Công ty đã có thể cắt giảm 10.000 lao động, bán đi hang` trăm công ty con và các công ty liên doanh, hay cho dù thu lại là một công ty sản xuất cỡ nhỏ thì đó cũng là tia hy vọng mới cho UCBS.

Nhưng không, Hai áp lực- nợ nần và lạm phát sụt giảm đã tới cùng một lúc và cùng một nơi. UCBS đã có gần 1 tỷ đô trong tài khoản có thể thanh toán và thương phiếu đang đến hạn vào cuối năm nay. ĐỒng thời doanh thu của công ty này có thể sử dụng để xoá hết các khoản nợ.

Thực tế thì, máy tính cá nhâ, viễn thông và mạng không dây là 3 ngành cơ bản đã ảnh hưởng mạnh nhất tới UCBS cũng đang chìm dần xuống.

Đối với nền công nghiệp sản xuất máy tính cá nhân, Johnston đã đọc được một bài báo cáo của tờ LIên Hiệp trên mạng về cuộc khảo sát của Goldman Sachs. Goldman đã khảo sát 100 giám đốc IT trong 1000 công ty hang` đầu của tạp chí Fortune, và nhận thấy hơn một nửa số lãnh đạo đã chi tiêu quá mức ngân quỹ giành cho IT. Chỉ có 8% là đang nâng cấp máy tính của công ty và 44% đang cố gắng trì hoãn việc nâng cấp máy tính vào năm sau. Ngay sau đó Johnston liền gửi bài báo trên trông một email tới phó tổng giám đốc để xem ý kiến của ông là thế nào.

Ngay hôm sau trong bữa ăn trưa, ngài phó tổng giám đốc nói: “ doanh thu từ máy tính cá nhân của chúng ta đang sụt giảm đấy! Hãy nhìn đây này, hãy xem doanh thu của chúng ta trên toàn cầu đi. Nhìn vào sự sụt giảm không ngừng trong 5 quý qua mà xem. Thật khủng khiếp. Những gì chúng ta nghĩ về hả năng vực dậy của thị trường máy tính cá nhân thì nó lại sụt giảm một lần nữa. Chẳng một ai muốn nâng cấp máy tính nữa. Tôi không thể quy tội cho họ. Máy tính của tôi tí ra cũng nhanh hơn gấp 10 lần những gì tôi cần ở một chiếc máy. Vậy tôi sẽ làm gì với một chiếc máy tính có tốc độ lớn gấp 10 lần như thế? Nhưng tôi vẫn cần nó, điều này đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của tôi.” Johnston vẫn lặng thinh, cố tỏ ra lạc quan:” ngài quá bi quan đó thôi, hãy nhìn về mặt tích cực đi.”

Ngài phó tổng giám đốc nhín vài và cười: “Haha! Ông đang nghĩ rằng tôi bi quan. Tôi sẽ chỉ cho ông thấy một phân tích của Brian gammage, giành cho Gartner Dataquest. Ở đây ông ta nói rằng:” Đây là một kết quả tồi tệ nhất trong những năm tồi tệ nhất, một kết quả quá tồi kể từ quý 3 năm ngoái, và là thời điểm ảm đảm nhấ trong một năm đầy tối tăm”. Hãy nói với tôi rằng:” KHông phải ông ta ngồi ngay tại phòng máy của chúng ta và đưa ra những lời nhận xét bậy về hoạt đông kinh doanh của công ty ta đấy chứ?”

“Nói về ngành viễn thông đi nhé?”

Ồ không. Đừng bắt tôi nói về vấn đề này. Tôi phải sao? THôi được nếu ông đã nài. Thực tế cho thấy những ai kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông sẽ thay thế vị trí của những người kinh doanh trong lĩnh vực máy tính cá nhân. Tôi xin cam đoan là chính xác, hiện nay kinh doanh máy tính cá nhân đang có chiều hướng giảm sút, nhưng việc kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông thì đang bị vướng vào những khoản nợ khổng lồ, những khoản chi tiêu quá vượt mức, và thậm chí cả những hành động phi pháp. Ngài đã biết về những vụ phá sản tại Globa Crossing, Worldcom và cuối cùng có thể là Quest. Nhưng ngài cũng biết rằng có 82 công ty viễn thông nộp đơn phá sản từ năm 2000 tới năm 2002 không? Ngài có nhận ra rằng có quá nhiều doanh nhiệp trong ngành viễn thông đang trên đà khủng hoảng tài chính và chính điều đó có thể làm tê liệt nhiều phần kinh tế chủ chốt trong nền kinh tế Mỹ không?

“ Tồi tệ đến vậy sao?”. “ Cực kỳ tồi”

“ Thế còn về trợ cấp mảng dịch vụ và sản phẩm điện thoại cầm tay của chúng ta thì sao?- Johnstone, vị CEO này vẫn từ tốn hỏi.

“Mảng thị trường này của chúng ta hiện đang trong thời kỳ định hình chưa rõ nét. Những người đang chạy đua với mảng thị trường này cua chúng ta dù họ thông minh thật đấy, nhưng họ phải trả hang tỷ đô để sở hữu cái gọi là Mạng Giao Tiếp thế hệ 3. Điều này cũng giống như trong những bộ phim khoa học viễn tưởng hay kỷ nguyên công nghệ trong tương lại. Nhưng hiện nay, những kiểu mạng giao tiếp thế này chỉ là một trong những bước đi lớn trong lịch sử của nhân loại. Việc hỗ trợ một khoản tiền lên tới 250 triệu USD của chúng ta hiện này cũng chỉ là một mẩu bánh bé tẹo trong mảng thị trường này. Ngài có muốn tôi nói về việc đầu tư của các công ty trên thế giới vào công nghệ 3G không?Được rồi, cụ thể là thế này: chỉ riêng các hãng viễn thông ở Châu Âu có 260 tỷ USD, riêng tại Mỹ đã có 1000 tỷ USD. Nhưng tổng số lợi nhuận có được từ khoản đầu tư này chỉ là con số 0. Một con số 0 tròn trĩnh.


Những con số này, Jonhston đã có từng được nghe trước đó từ nhiều nguồn khác nhau. Ông nói:” Đó là lý do tại sao tôi khuyến khích họ nên tập trung lại vào việc kinh doanh điện thoại di động có tốc độ thông thường”

Một nước đi đúng”. Nhưng ngài bíêt đấy, việc kinh doanh điện thoại di động hiện này đang ngày một khó khăn hơn. Có quá nhiều các nhà sản xuất tung ra nhiều loại điện thoại với nhiều kiểu dáng khác nhau cùng một mức giá rất cạnh tranh. Và cũng có quá nhiều nhà cung cấp dịch vụ, có quá nhiều mạng di động, có quá nhiều giao dịch gắn với việc giảm giá. Một mớ lộn xộn điển hình. Thật đáng buồn! Điều này đã khiến 6 nhà cung cấp dịch vụ trên toàn nước Mỹ đã cắt giảm vốn chi tiếu hơn 20 phần trăm trong quý đầu của năm 2002 đó! Đó cũng là điều khiến cho Nokia và Ericsson gặp nhiều khó khăn. Và đây cũng là lý do tôi khuyên ngài nên giảm khỏan trợ cấp trong mảng thị trường này đi trước khi quá muộn”

Với gương mặt lạnh tanh, Johnston nhìn chăm chú vị Phó Giám Đốc trong vài giây. Ông không dám chắc rằng liệu ông có nên thú nhận về nỗi sợ hãi trong tâm ông về công ty hay không như việc thu hẹp công ty lại, hay cố gắng đưa ra một luận điểm vững vàng như thể khi ông đang nói chuyện với các nhà phân tích trên Wall Street. Ông quyết định lựa chọn phương án pha trộn 2 phương án trên. “ Nhìn này, tôi thừa nhận rằng chúng ta mắc phải nhiều sai lầm nghiêm trọng trong lĩnh vực công nghệ cao. Tôi cũng thừa nhận rằng chúng ta đã không thể dừng lại kịp,tôi có một vài câu hỏi muốn hỏi ông: “ Công ty chúng ta có kiếm được tiền không? Công ty có tài sản hữu hình và tài sản thực không? Điều này tôi không dám chắc. Nhưng chúng ta có thể đạt được điều đó không? Tất nhiên là có. May mắn làm sao chúng ta là một công ty kinh doanh đa dạng…”

Vị phó giám đốc ngắt lời và lắc đầu : “ Tôi có một câu hỏi”
Johnston đáp : “ Hỏi đi.”
“Họ nói rằng tình trạng suy thoái năm ngoài ngắn và không trầm trọng,phải không?
“ Đúng.”
“ Họ nói rằng chúng ta đang dần hồi phục được, đúng không?”
“ Đúng.”

Thế đấy, chúng ta đang vướng vào quá nhiều rắc rối- nếu hầu hết mọi người họat động trong cùng lĩnh vực của chúng ta đang gặp phải quá nhiều vấn đề trên toàn câu, thậm chí trong cả quá trình phục hồi- sau đó liệu ngài có thể nói với tôi rằng điều gì đang xảy đến với chúng ta nếu chúng ta lại lâm vào tình trạng suy thoái? Ông có thể nói cho tôi biết cái gì sẽ xảy đến với chúng ta nếu chúng ta gặp phải tình trạng suy thoái lâu dài và khủng khiếp không?

Cuộc gặp mặt kết thúc, và Johnston không chắc chắn về điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Ông cảm thấy choáng váng, để rồi nỗ lực tìm ra thời điểm hợp lý để đến buổi họp AA. Nhưng cuối cùng ông cũng đã thực hiện được bước đầu tiên.

Ông cho gọi nhân viên kiểm toán, xin lỗi mọi người vì bất kỳ một thái độ cao ngạo nào của ông mà ông đã mắc phải trong buổi họp lần trước về quá trình kiểm toán. Thêm vào đó, ông đã làm một vài điều mà ông chưa bao giờ làm trước đó. Ông cho gọi các cố vấn và kiểm toán viên đến cùng một buổi họp. Với sự có mặt của mọi người, ông yêu cầu nghiên cứu sâu bên trong của mọi vấn đề có thể liên quan đến kế toán: các khoản tiền và các quyền chọn của giám đốc, các khoản tiền trợ cấp, tiền lương và tiền phát sinh.

Khi một bài báo trở lại, ông triệu tập một cuộc họp báo với các nhà nghiên cứu phân tích Wall Street- lần này thì mở cửa cho công chúng tham dự vì theo các quy định mới của SEC.

Cuối cùng, thảo luận trong một cuộc nói chuyện CNBC, một nhà phân tích đã miêu tả buổi hổi thảo như sau: “ Tôi cảm thấy giống như một thầy tu ngồi trong cuộc họp, lắng nghe tất cả lời thú tội dài bất tận. Từng phần một, từng mục một, vị CEO nói với chúng tôi điều họ đã mắc phải. Sau đó ông ấy nói với chúng tôi làm thế nào họ có thể sửa chữa lại lỗi lầm này. Điều này có khiến mọi người shock không nhỉ? Hiển nhiên rồi. KHông ai nghi hoặc rằng UCBS đã đi quá xa trong những mưu mẹo kế toán? Chúng khóng liệu có sụt giảm nữa không? Hiển nhiên rồi. Nhưng nó làm cho bầu không khí đỡ ngột ngạt. NẾu các nhà đầu tư có thể tiếp tục tồn tai sau buổi họp báo này, họ có thể sống sót sau tất cả mọi thứ đã diễn ra. Tuy nhiên,Về vấn đề khả năng tài chính của chính công ty này, điều đó lại là một vấn đề khác. Không một ai biết được.”

Johnston tiếp bước thứ hai: làm sạch toàn nhà này. Ông tính toán khoản thời gian để làm sáng tỏ những giao dịch phái sinh, để bán hết hay làm cũng cố khoản trợ vấp, và nhiều hơn thế.
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:42 pm

Chương 6: Hãy bán ngay cổ phiếu

Tamara Belmont xin thôi việc. Rời khỏi Harris& Jones, Tamara bắt đầu tìm kiếm những cơ hội mới. Với 8 năm kinh nghiệm là một nhà kinh tế nghiên cứu thị trường Wall Street, trước đó, cô làm trợ giảng môn kinh tế vĩ mô tại trường Columbia trong vòng 4 năm. Tamara đam mê nghiên cứu thuần túy. Luôn tìm mọi cách quay trở lại thế giới học thuật và nghiên cứu, đồng thời Tamara luôn tìm cách bù đắp cho khoản lương ngày một eo hẹp qua việc thu thập các thông tin tuyển dụng.

Lời mời đầu tiên cô có được là từ trường Đại Học Kinh Doanh Columbia. Đây là một tập thể nhỏ, là nơi tập hợp đội ngũ các nhà đầu tư và nhân viên có cùng đam mê học thuật và hầu hết họ đều chơi chứng khóan. Đây thực sự là một cơ hội đầu tiên cho Tamara nói những gì cô ta ấp ủ trong nhiều tháng qua. Đứng trên bục giảng, cô nói:
-Ngày hôm nay tôi tới đây với tư cách cá nhân và với tư cách đại diện cho một tập hợp các công ty.Và tôi tới đây để nói cho các bạn biết rằng: Các bạn đã bị lừa! Enron, WorldCom, Merrill, hay Arthur Andersen đều là những kẻ bịp bợm

Chúng tôi là Enron, chúng tôi đổ bể trong phi vụ hợp tác lớn nhất trong lịch sử, chúng tôi đã nói dối với mọi người về các khỏan nợ, các khỏan lợi nhuận và các khỏan trợ cấp. Chúng tôi đã nói dối các nhân viên ngân hàng, nói dối những nhà môi giới. Chúng tôi nói dối các cổ đông và cả các nhân viên. Chúng tôi nói dối SEC, NASD, George Bush và ngay cả tổng thống Bill Clinton. Một điều mà Pinocchio hẳn sẽ rất tự hào.

Chúng tôi là WorldCom, quy mô gần gấp 3 lần Enron! Chúng tôi nói dối về số tiền 9 tỷ USD, một lượng tiền ảo lớn nhất mọi thời đại.
Chúng tôi là Merrill Lynch, công ty môi giới lớn nhất và danh tiếng nhất thế giới, với hơn 10 triệu tài khoản cá nhân. Chúng tôi đang vận hành một cỗ máy nói dối tinh vi. Chúng tôi đã chuyển những đánh giá ảo tới những nhà đầu tư trên khắp thế giới với một tốc độ và hiệu suất không tưởng.

Chúng tôi là Andersen, một trong những công ty kế toán lừng lẫy, triển vọng nhất tại Mỹ. Chúng tôi cũng nói dối mọi người. Chúng tôi có thể bị kết tội vì làm trái pháp luật, lừa đảo và che đậy sự thật
Nhưng nếu các ngài có mặt ở đây ngày hôm nay, hẳn các ngài nghĩ rằng các ngài đã từng nếm trải những lừa dối tồi tệ nhất , thì đã đến lúc các ngài nên tỉnh ngủ và lắng nghe lời tôi nói.

Ngoài Enron, ít nhất có 30 công ty khác cũng như vậy, đó chỉ là vài công ty có thể sẽ bị phát hiện. Mỗi một “Enron” đều thừa nhận có dính líu vào một việc làm phi pháp, trong khi lại có hàng trăm công ty khác đảm bảo rằng các việc làm lôi kéo khách hàng của họ là đúng pháp luật.

Bên cạnh Merrill Lynch, có ít nhất 46 các công ty lớn khác tại Wall Street cũng làm những việc tương tự với các ngài, công ty tôi cũng nằm trong số đó. Những công ty này sẽ tư vấn cổ phiếu của những công ty trên cho tới tận ngày những công ty đó bị phá sản, bất chấp tín hiệu cho thấy những công ty này đang đi xuống.

Cùng với Arthur Andersen, còn có 4 công ty kế toán khác đã không nói thật. Mỗi một công ty đều có cùng các xung đột về lợi ích, có cùng ganh đua giữa một bên là bộ phận kiểm toán và một bên là bộ phận tư vấn.

Các ngài không chút nghi ngờ về những lời nói của chúng tôi trước đó. Nhưng các ngài có nhận biêt được mức độ rủi ro khi nghe theo những lời nói đó không? Và liệu các ngài có nhận ra nó gây thiệt hai bao nhiêu cho khả năng tài chính trong tương lai của gia đình các ngài không?

“Lời khuyên” cuối cùng

Linda và Gabriel Dedini chắc hẳn đã biết. Họ đã gần như mất hết số tiền của mình tại thị trường chứng khoán. Họ đã phải bán đi ngôi nhà giành cho kỳ nghỉ hè và bây giớ họ đang bàn đến việc bán đi căn hộ đang ở của mình.

Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra. Không có chỗ nào thích hợp cho cuộc sống của họ, 2 đứa trẻ còn đang học tiểu học tại một ngồi trường chỉ có 3 dãy nhà

Cuộc tranh luận của họ đang dần lên đỉnh điểm thì điện thoại reo. Đó là Dubois, nhà môi giới của họ tại Harris&Jones, gọi thông báo về một bước giá mới và ông ta gọi là “cơ hội đầu tư tuyệt với”.
Ông ta biết danh mục đầu tư của gia đình họ đang bị rớt, do đó Dubois bắt đầu một chiến thuật mới. Ông ta nói về sự sụt giảm của lãi suất vay thế chấp như thế nào và họ có thể tái đầu tư vào thị trường chứng khoán, bằng cách đưa một lượng tiền của họ vào thị trường và bắt nó sinh sôi ra sao. Ông ta nói rằng mọi người đang làm như vậy, tất cả mọi người ngoại trừ nhà Dedini “Gia đình Dedini đang mất đi cơ hội đó”. Ông ta nói cứ như đó là chuyện tầm phào nhan nhản trong thị trấn này vậy. Đương nhiên ông ta cam kết là thị trường chứng khoán đã sụt giảm vài năm nhưng đó là bước đệm để thị trường tăng trưởng trở lại vào lúc này, để thị trường quay trở lại mặt đất.

Linda nghe ông ta nói một cách lịch sự và cô nói với Dubois rằng sẽ tìm ông ta trong vòng 24h nữa. Một tiếng sau đó, cô ta gọi lại cho Dubois và sa thải ông ta, 4 tiếng sau, cô ta đang ngồi tại Bantimore, Maryland, văn phòng của người lập kế hoạch tài chính mà cô ta được giới thiệu bởi một người bạn trung gian.

Tư vấn viên

Cô ta đưa cho nhà tư vấn bản tóm tắt ngắn gọn về lược sử tài chính của mình và hỏi ý kiến nhà tư vấn. Tuy nhiên, trước khi tiếp tục, nhà tư vấn kia cung cấp một số thông tin về tiền công của mình: “Tư vấn lần đầu là miễn phí, nhưng cô sẽ phải trả 75$ một giờ cho mỗi lần tư vấn tiếp theo.”

Anh ta kiếm tiền từ những khoản tiền hỏa hồng. Không bán bảo hiểm, không tham gia vào các quỹ tương hỗ hay bất kì một phi vụ đầu tư nào. Tất cả những gì anh ta bán là thông tin và những lời tư vấn, không gì khác. Linda sẽ được khuyến khích đầu tư vào những gì là tốt nhất. Nếu Linda muốn trả anh ta một tỷ lệ phần trăm nhỏ để quản lý tài sản của cô,thì đó sẽ là lựa chọn khác. Sự lựa chọn thuộc về Linda.
Anh ta nói:

-Thật ngạc nhiên!Có tận 40.000 nhà lập kế hoạch tài chính đăng ký tại bang Maryland, nhưng chỉ có vài trăm người là những nhà tài chính chỉ vì tiền. Tôi là một trong số đó. Nếu như cô không muốn làm việc với tôi, tôi sẽ hối tiếc vì bỏ lỡ một cơ hội kinh doanh, nhưng tôi có thể chỉ cho cô có thể kiếm nhà tư vấn khác trong vùng. Hoặc là cô có thể lựa chọn một nhân viên kế toán đặc biệt - một người có chuyên môn đã được đào tạo trong lĩnh vực liên quan tới đầu tư—một chuyên gia phân tích tài chính cá nhân. Người đó có thể tham gia hàng giờ. Nhưng xin cô , bất cứ điều gì cô làm, xin đừng bao giờ quay trở lại với những người gã môi giới lươn lẹo. Họ không phải là những nhà tư vấn. Họ là những người bán hàng cải trang đầy lọc lừa.

-Làm sao tôi biết được sự khác biệt đó? Linda hỏi
-Điều đó khá đơn giản.Những người cô thuê đều ở trong lĩnh vực tài chính cũng như người bán hàng hay những các nhà tư vấn.Họ không thể đóng hai vai trong cùng một lúc. Những người bán hàng sẽ nói với cô là họ chẳng dính dáng gì tới những lời tư vấn giành cho cô. Họ sẽ nói với cô điều đó cùng với dịch vu đi kèm hay cô sẽ nhận được lời khuyên khi cô phải trả lệ phí giao dịch hay tiền hoa hồng cho họ. Và những lời tư vấn cô được ”tặng” lúc này là những lời tư vấn ba xu” .

-Còn những nhà tư vấn thì sao?.
-Khác biệt hoàn toàn. Nhà tư vấn sẽ nói cho cô biết khoản tiền mà họ sẽ lấy, rồi sẽ nói cho cô những gì họ có trách nhiệm phải nói sau khi đã nhận tiền. Quá rõ ràng”.
Linda nhìn một cách đầy suy xét nhưng vẫn không chắc chắn. Cô nói:
-Liệu các nguyên tắc đầu tư đã được chứng minh qua thời gian có thực sự không liên quan tới cấu trúc chi phí, không liên quan tới các khoản hoa hồng hay các xung đột về lợi ích không? Tôi dạy vật lý, dù được trả như thế nào tôi cũng không thay đổi thực tế là e=mc2.

-Nó chẳng liên quan gì tới tính tương đối ở đây cả, nó thuộc về quá khứ- quá khứ của chính cô đó, chẳng hạn thế này. Cô bảo tôi là một cổ phiếu của cô sụt giảm 75% giá trị và những cổ phiếu khác mất giá 100%. Cô bảo tôi là nhà môi giới của Hariss&Jones đã tư vấn cho cô về các loại cổ phiếu đó. Cô không bíết rằng Harriss & Jones là công ty bao tiêu về cổ phiếu hàng đẩu không? Cô có biết rằng 90% doanh thu của Harris & Jones có được năm ngoái là từ những hợp đồng như vậy hay không?

Linda Dedini lắc đầu. Cô ấy không biết
-Vậy còn về Dubois, người môi giới? Tôi đã tin ông ta. Tại sao nhà môi giới của tôi lại….?”
-Những nhà môi giới được đào tạo để trở thành những cỗ máy bán hàng lợi hại nhất. Tôi biết đôi điều về Harris. Tôi có bạn làm việc ở đó. Cô có biết họ làm cái gì và làm như thế nào không? Những nhà môi giới của Harris, những kẻ nhận những khỏan tiền thưởng lên tới 6 con số, những kẻ có thể bán đi cổ phiếu của các công ty đó nhiều nhất. Họ chiến thắng trong nhiều cuộc thi đặc biệt. Giải thưởng là 3 tuần nghỉ tại câu lạc bộ Med đắt đỏ. Harris chưa bao giờ nói với cô về điều đó, đúng không?

-Tôi hiểu, nhưng thị trường đi xuống không phải lỗi của ông ấy.
-Không, nhưng nhìn toàn diện thì ông ta có thể hại cô. Cô đã trả nhiều tiền hoa hồng cho dịch vụ môi giới, và những khoản tiền đó đã chảy thẳng ra khỏi túi cô,. Cô đã đầu tư, những khoán đầu tư nhiều hơn mức bình thường đã khiến cô trở thành một người chơi, một người thất bại hoàn toàn. Cô bị gài bẫy trong phi vụ làm ăn thất bại này.
Linda dường như vẫn không chắc chắn, do đó người tư vấn thử một phép ẩn dụ.

-Đó giống như cô vào trong chiếc vòng với người đấu vật chuyên nghiệp. Đầu tiên nhờ có khoản tiền hoa hồng, anh ta sẽ làm cô ngay ngất ,sau đó lôi kéo cô vào các vụ đầu tư “đầy triển vọng”. Cuối cùng anh ta sẽ gìm cô xuống sàn và không để cô thoát. Ý nghĩa của câu truyện: “Không bao giờ làm theo cái gọi là lời khuyên không lệ phí”.

Linda lại hỏi :
-Vậy còn những nguyên tắc đầu tư dài hạn?Anh thường kiếm tiền từ khoản đầu tư vào cổ phiếu trong dài hạn. Đó là một nguyên tắc căn bản mà tôi đang muốn nói từ sớm. Giống như việc vũ trụ đang không ngừng mở rộng”.
Người tư vấn cười thân mật.
-Cô biết về vũ trụ còn tôi biết về thị trường chứng khoán. Lấy ví dụ về thị trường năm 1929-1932. Nếu cô mua 500 cổ phiếu trung bình của S&P khi thị trường lên tới đỉnh, cô nghĩ sẽ mất bao nhiêu năm để lấy lại vốn?

-Anh nói xem?
-Ít nhất 25 năm. Tôi không biết cô bao nhiêu tuổi, nhưng tôi đã 62. Nếu tôi phải đợi lâu như vậy, tôi sẽ 87 tuổi khi tôi thu lại vốn. Có thể tôi đã về với Chúa rồi. Kể cả khi cô trẻ hơn, liệu cô có thể đợi lâu như vậy không? Các con cô có thể đợi được trước khi chúng đi học đại học không? Và cô nghĩ phải mất bao nhiêu năm để bắt kịp với những người đầu tư vào cái gì đó đang tăng trong khi thị trường cổ phiếu lại đang giảmvới mức giá ngày càng chạm đáy?
-50 năm?
-Không, có thể không bao giờ, cô sẽ không bao giờ bắt kịp
-Tôi hiểu
-Coi này, toàn bộ học thuyết ‘cổ phiếu dài hạn sẽ đem lại thành công’ đã che phủ hết những thiếu sót. Nó cho rằng, vào giai đọan đầu khi người chơi cổ phiếu tiến hành đầu cơ chờ giá tăng thì cô mua cổ phiếu, thực tế chỉ có một số ít người chơi sáng suốt ở giai đọan này và họ chỉ đầu tư một lượng nhỏ. Nó cũng chỉ ra cô không bao giờ mua cổ phiếu khi thị trường lên tới đỉnh nhưng thực tế thì hầu hết tiền đều đi vào thị trường khi giá tiến gần tới đỉnh điểm. Khi nào thì cô mua cổ phiếu? Có phải vào cuối thập niên 90 không? Đa số mọi người đều làm như vậy.

-Tôi hiểu. Linda biết hết về những giả định sai lầm đó và luôn cảnh báo với sinh viên của mình về điều đó mỗi khi học kỳ mới bắt đầu.

-Trong cuối thập niên 90s , thực tế cô có thể mua cả thị trường nếu cô mua tất cả 30 cổ phần tại Dow, hay 500 cổ phần tại S&P, trên thực tế cô đã không mua chúng. Cô mua cổ phiếu của UCBS, Global Crossing, Worldcom và một số công ty khác. Cô đã mua những loại cổ phiếu dường như không bao giờ có thể phục hồi, cổ phiếu của các công ty sống dặt dẹo. Do đó, khi toàn bộ thị trường thụt lùi, thì cô cũng không nên ở đó để kiếm chác. Tất cả các cuộc tranh cãi về thị trường chứng khoán luôn gia tăng, và những cuộc tranh luận đó hoàn toàn không dính dáng gì tới trường hợp của cô cả.

Linda giận tím người. Cô không thể tin được Dubois lại lừa đảo mình một cách ranh ma như thế, rằng toàn bộ chuyên gia ở Wall Street có thể là những kẻ lừa đảo. Liệu đó có phải là những toan tính của họ không? Liệu họ có thể bị lừa bởi những người khác không, giống như cô ấy? Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là cô ta gần như phá sản và không tìm được con đường rút ra. Cô cố gắng giữ bình tĩnh để hỏi:
-Ok, vậy tôi phải làm gì bây giờ?
-Cô có nợ nần gì không?
-Chỉ là cầm cố ngôi nhà thôi
-Cô vay với lãi suất bao nhiêu?
-9%
-Tất nhiên rồi, lạy Chúa!
-Vậy thì để tôi hỏi cô: Cô có thể tìm cho tôi vụ đầu tư nào trong hôm nay, bất kỳ ở đâu và tôi sẽ trả cô 9%. Cô không thể phải không? Điều đó không hề có. Lúc này, cô có thể cứu vớt 9% đó bằng cách trang trải khoản nợ đó . Cô phải nhớ rằng:Tiết kiệm một đồng là kiếm được một đồng, phải không?

-Chắc chắn rồi, nhưng mọi người đang nói là chúng ta làm ngược lại hoàn toàn. Để củng cố tài chính thì phải đem tiền đầu tư ra bên ngoài chứ không phải cất nó bên trong.
-Ai nói với cô điều đó? Có phải những “con cò” cầm cố với những khoản lệ phí cao ngất ngưởng không? Hay là những kẻ môi giới cổ phiếu muốn bày trò với những đồng USD của cô? Cho dù cô không nói gì với họ, thì họ vẫn là khởi nguồn của việc thúc đẩy tái đầu tư của cô. Nếu họ không nói với cô, họ vẫn có thể tìm người khác. Cho dù những kẻ môi giới luôn đó nói đúng và những lời tư vấn của họ đang khiến các khỏan chi phí của cô dừng lại thì cô cũng chẳng thể nào tiết kiệm được một khoản như cô tưởng đâu.Nếu cô làm vậy, hãy chắc rằng tiền của cô đang được tiết kiệm và các khoản nợ đượckhông gia tăng.

-Nếu chúng ta không tái đầu tư, chúng ta lấy đâu ra tiền để trả nợ?
-Cô hãy bán hết cổ phiếu đang giữ. Dừng các hành động đầu tư lại, hãy rời khỏi thị trường. Bảo quản kỹ tiền của mình. Sau đó, chúng ta có thể bắt đầu đưa cô đi đúng hướng trên một mớ tạp nham hiện nay. Tôi không thể đảm bảo là sẽ thành công. Nhưng tôi bảo đảm xung đột về lợi ích sẽ không còn, không có gì chống lại cô cả.

-“Nhưng tôi không thể bán chúng bây giờ. Tôi không thể mất như vậy”,Cô ta nói với nụ cười chua xót.
-Mất mát đã là lịch sử. Cô đã mất rồi đấy thôi.
-Tôi hiểu, nhưng giả dụ nếu tôi bán bây giờ nhưng ngày mai thị trường lại lên thì sao. Tôi sẽ hối hận lắm.
-Điều đó có thể xảy ra. Nhưng cô vẫn không hiểu sao?Cô đang nói về các công ty thua lỗ trong một thị trường đang trượt dốc. Nếu cô có tiền ngay hôm nay, cô có đi mua cổ phiếu đó không.

-Không đời nào!
-Hãy thận trọng khi bán. Bây giờ cho dù thị trường có thể nào đi nữa, cho dù cô mất bao nhiêu, hãy bán ngay những cổ phiếu đó đi.

Hãy khôn khéo khi bán.

-Liệu tôi có nên gọi cho người môi giới và bán ngay mọi thứ trong một ngày không?
-Không, cô nên bán chúng một cách khôn khéo
-Tôi không hiểu ông định ám chỉ điều gì. Nhưng trong trường hợp của tôi, tất cả những gì tôi có là một ít cổ phiếu. Chúng đang giảm giá một cách thảm hại. Và tôi phát ốm vì điều đó.
Cô dừng lại, định nói điều gì, nhưng lại thôi, cuối cùng tiếp tục:
-Có ai đó trong gia đình có danh mục các khoản đầu tư lớn. Ông ta đã 90 và có vẻ sức khỏe không tốt. Ông ta không thể đưa ra những quyết định mà không có sự trợ giúp. Ông ta bướng bỉnh như một con la vượt qua con bò. Ông ta có một số cổ phần cho 30 hay 40 năm, hoặc nhiều hơn, tôi không rõ. Nếu tôi giấu ông ta và bán tất cả số cổ phiếu đó, tôi biết ông ta sẽ nói ‘chỉ còn thân già này’ với tôi.
-Ông ấy quan hệ thế nào với cô?
Linda không trả lời ngay. Mặc dù cô tin người cố vấn này, cô vẫn do dự không muốn kể chuyện gia đình với ông. Nhưng đó là phía kia của gia đình nhà ngoại, do đó nếu nói cũng không sao. “Đò là người ông 91 tuổi của tôi”
-Ok .Đây là những gì ta sẽ làm cho ông ấy. Buớc1, bán số cổ phiếu có mức độ rủi ro cao nhất tại Mỹ ngày hôm nay, Người cố vấn nói.
-Làm sao chúng ta biết chúng là loại nào?
-Đó là loại có tỉ lệ lãi suất thấp nhất từ những nguồn độc lập và minh bạch.
-Tôi lấy chúng ở đâu?
Người cố vấn có vẻ hơi khó chịu. Ông cố gắng kiềm chế, giữ lịch sự và khuyên cô rằng chỉ nên thắc mắc khi ông đã chỉ cho cô xong bước cơ bản này. Sau đó cô có thể thoải mái hỏi về tình thế hiện tại của cô.

*Bước 1:
-Phải bán hết số cổ phiếu có rủi ro lớn. Nếu cô định làm điều đó ngay bây giờ, tôi có thể đưa cho cô một danh sách để cô có thể tham khảo. Đây, nhìn nhé! Trong đó có ghi đầy đủ tên, mã cổ phiếu, mức trao đổi, và tỉ lệ. Tất cả đều có thể giảm giá thậm chí phá sản. Nếu cô đang sở hữu, ehm, hãy bán đi. Ehm, đừng chờ đợi”

*Bước 2. Cô có thể sở hữu những cố phiếu mà không nắm trong danh sách này. Tôi sẽ giới thiệu cho cô 2 hãng niêm yết độc lập để cô có thể so sánh. Nếu tỉ lệ này thấp, chúng ta cũng sẽ bán. Xem bảng 6.2.

*Bước 3….Người cố vấn dừng lại và hỏi khách hàng của mình rằng khi nào cô định bán cổ phiếu, tuần này hay tháng tới? Cô trả lời rằng cô chưa suy nghĩ về điều này. Có thể là ngay lập tức, cũng có thể là một năm. Thậm chí cô cũng không rõ rằng liệu ai sẽ ra quyết định cuối cùng về việc này hoặc liệu ông có còn tư vấn cho cô vào thời điểm đấy nữa không?

Bảng 6.1

Ông thú nhận: “ Vào thời điểm cô định bán ra, các cổ phiếu này có thể ở mức thấp nhất hoặc có thể đang trong giai đoạn phục hồi! Do vậy, hãy để tôi chỉ cho cô cách để có thể tự giúp mình nếu không có ai giúp đỡ cô.

Ông lấy một tập giấy và dúi nó vào tay cô. Cô nhìn tờ giấy và hơi cau mày, không biết chắc rằng cô sẽ phải làm gì. “Một câu hỏi quan trọng mà cô phải suy nghĩ vào mọi lúc đó là “ Liệu rằng thị trường có suy thoái nữa ko?. Hãy viết “Liệu rằng thị trường có suy thoái nữa ko?”
Cô lấy bút viết những điều mà nhà cố vấn nói. Vừa ngồi xoay trên ghế, nhìn màn hình máy tính và giới thiệu hàng loạt các bước, dừng lại một chút sau khi kết thúc một bước để cô có thời gian viết. Trong lúc chỉ dẫn cho cô các bước ông cũng dùng những biểu đồ đơn giản hợp lí để minh họa. Những biểu đồ này sẽ giúp cô có câu trả lời có hoặc không một cách dễ dàng. Nếu những biếu đồ này cho thấy rằng thị trường vẫn đang tiếp tục suy thoái thì có nghĩa là cô nên bán ngay lập tức hoặc bán sớm.

-Thậm chí ngay cả khi cổ phiểu của tôi đang bị trượt giá?
-Chính xác. Khi cô bán sớm, cô sẽ chẳng được lãi gì nhưng cô vẫn thu về được số tiền bán 100% cổ phiếu. Và điều này sẽ giúp cô tránh bị lỗ nhiều khi giá cổ phiếu tiếp tục giảm. Đừng bao giờ hi vọng rằng cô ko bị lỗ từ việc bán cổ phiếu trong những hoàn cảnh như vậy. Nếu không trên thực tế những cổ phiếu này đang tiếp tục giảm một cách đều đặn. Và điều này có nghĩa là những cổ phiếu này đang có xu hướng giảm trong dài hạn – xu hướng mà bạn phải giả định là sẽ tiếp tục nếu không có một động thái nào khác chứng minh điều ngược lại.

bảng 6.2

* Bước 4: Nếu biểu đồ mô tả chỉ ra rằng thị trường vẫn đang tiếp tục suy thoái, hãy gọi người môi giới và bắt đầu bán.

Liệu chúng ta vẫn ở trong một thị trường suy thoái?

Nếu bạn kết nối vói internet, làm theo chỉ dẫn dưới đây. Nếu bạn không kết nối với internet, người môi giới của bạn có thể giúp bạn giống như làm theo lời chỉ dẫn hoặc sử dụng một số chương trình khác cũng cung cấp những thông tin như vậy.

Để bắt đầu, mở trang web sử dụng trình duyệt Microsoft Internet Explorer, Netscape, hay AOL, sau đó làm theo chỉ dẫn:

1.Vào địa chỉ http http://finance.yahoo.com

2.Phía góc dưới bên trái màn hình, bạn sẽ thấy biểu đồ thị trường chứng khoán của ngày hôm nay “Tổng kết thị trường” và dưới đó là mức điểm trung bình mới nhất của thị trường chứng khoán. Ấn vào “S & P 500”

3. Biểu đồ S & P 500 của ngày hôm nay sẽ xuất hiện trên màn hình.
Dưới biểu đồ, hãy nhìn vào dòng bắt đầu bằng chữ “Big”. Sau đó
ấn vào “5Y”.

4.Một biểu đồ lớn hơn, biểu đồ S&P 500 cho 5 năm sẽ xuất hiện.
Nhìn vào thị trường hôm nay để so sánh với 3 năm trước đó
rong hầu hết các trường hợp, nó chỉ ra rõ ràng rằng khuynh
hướng của thị trường trong vòng 3 năm qua.

5. Nếu bạn vẫn chưa thấy rõ ràng, hãy nhìn những dòng chữ ở dưới bảng băt đầu với chữ “ Biểu đồ: MỨC ĐỘ GIAO ĐỘNG TRUNG BÌNH”. ẤN VÀO “ GIAO ĐỘNG TRUNG BÌNH”

6.Bạn nên nhìn vào biểu đồ S & P 500 mới với 3 dòng:

Dòng màu xanh biển là chỉ số S & P 500 , chỉ chỉ ra mức giá đóng cửa hàng ngày của các phiên giao dịch

Dòng màu đỏ chỉ ra mức độ dao động trung bình trong vòng 50 ngày của S & P 500.

Dòng màu xanh lá cây chỉ ra mức dao động trung bình của S & P 500 trong vòng 200 ngày.

7.Tự hỏi mình xem biểu đồ nào cao hơn – biểu đồ màu xanh biển hay màu xanh lá cây.
Nếu màu xanh lá cây cao hơn, thì xu hướng dài hạn của thị trường có thể là vẫn giảm ( mặc dù hiện tại thì chưa chắc đúng như vậy). Nó chỉ ra rầng, thị trường sẽ vẫn tiếp tục giảm giá.

Nếu biểu đồ màu xanh biển cao hơn – có nghĩa là thị trường có thể đang hồi phục. Cảnh báo: Không nên cho đây là dấu hiệu để giữ hay bán các cổ phiếu thông thường.

Cảnh báo: Các website sẽ thay đổi cách trình bày! Cuốn sách này cung cấp một sự hướng dẫn cụ thể đối với những web site phổ biến thông dụng ngày nay. Tuy nhiên, các trang web này thường thay đổi cấu trúc và cách trình bày. Nếu vậy, bạn cần phải thay đổi các bước thực hiện cho phù hợp,

-Vậy bây giờ, tôi sẽ bảo anh ta bán mọi thứ đi ngay lập tức. Đúng vậy không?
-Không hẳn! Đấy chính là lúc thể hiện quyết định bán khôn ngoan. Nếu cô là một nhà đầu tư thông minh, cô sẽ cố gắng để tránh bán ra khi giá đang giảm. Đó là khi thị trường đang giảm gía, khi những người khác cũng muốn bán giống như cô.

-Giải pháp là gì vây?
- Bán ngay ½. Sau đó chờ đợi sự phục hồi trong ngắn hạn của thị trường trước khi bán nốt phần còn lại

-Sự phục hồi của thị trường trong ngắn hạn? – cô hỏi.
-“Một cách lý tưởng” – ông trả lời, nghĩ rằng ông đang trả lời, “ Tôi muốn cô bán cổ phiếu trong điều kiện thị trường tốt hơn. Tôi không muốn cô bán khi mà thị trường đang tồi tệ hoặc biến động nhanh”

Cô không hài lòng với câu trả lời. “ Để tôi nhắc lại câu hỏi của tôi theo cách này. Trong một số các lĩnh vực, ngắn hạn có thể là 100 năm, trong khi ở những lĩnh vực khác, “dài hạn có thể là 1/10 giây. Chúng tôi không có thời gian để xa xỉ như ông đang làm trên thị trường chứng khoán. Điều tôi muốn là định nghĩa chính xác của cụm từ “sự tăng giá của thị trường trong ngắn hạn”.

Lần này thay vì ghi chép, người cố vấn chỉ cho cô nhìn vào màn hình máy tính của ông. Cô đeo kính, đứng phía sau ông và quan sát màn hình.

-“ Được rồi. Hãy nhìn bước 5” ông nói “ Tôi sử dung những công cụ miễn phí trên Web. Cô có thể mua một phần mềm phức tạp nếu cô muốn, nhưng liệu nó có tốt hay không. Hãy nhìn này? Ấn vào đây và cô sẽ có được biểu đồ S & P 500 của năm trước. Sau đó qua đây và cô có được mức dao động trung bình. Ngay khi mà dòng màu đen thấp hơn dòng màu xanh, tôi sẽ đinh nghĩa đó là sự tăng giá trong ngắn hạn. Điểm này chính là điểm mà cô bắt đầu bán. Đây là sự tùy hứng? Đúng, nhưng điều này tuân theo nguyên tắc khoa học mà cô đang tìm kiếm”.

Khi cô ngồi xuống, ông đưa cho cô xem bản hướng dẫn photo mà ông đã chuẩn bị cho một khách hàng khác. Phía trên, phần chữ đậm , “Liệu rằng thị trường đang ở giai đoạn tập trung”.

Nếu câu trả lời là “có”, - ông tiếp tục, “ Cô có thể bán tất cả những gì cô có một cách tự tin. Nếu câu trả lời là “không”, bán ngay một nửa và sau đó bán phần còn lại”.
-Sau đó? Chính xác là khi nào?
- Kiểm tra hàng ngày nếu cô muốn. Ít nhất là hàng tuần. Một khi cô có được nó, hãy để nó trên màn hình và khi cô muốn xem, cô chỉ cần nhấn vào nút “Refresh” trên MS Internet Explorer. Cô biết – cái hộp với hai mũi tên nhỏ chỉ theo hai hướng khác nhau.

-Huh?
-Hãy nhìn. Ngay tại đây. Thấy không? Mũi tên này ở giữa biểu tượng home và stop? Hãy ấn vào đấy và nhìn nhé. Ngay tại đây, cô có thể nhìn thấy thị trường trong tình trạng tập trung hoặc không. Nhưng nhớ rằng, đó hoàn toàn là khả năng. Điều này không đảm bảo chắc chắn, chỉ là một công cụ hỗ trợ thôi.

-Nó đây?
- Đúng……….ah,,,,,,,,,,không, đợi một chút. Thêm một điều nữa. Trong danh mục đầu tư cổ phiếu của ông cô không có cổ phiếu có giá trị nhỏ chứ?

-Tôi không nghĩ vậy
- Tốt, nhưng những cổ phiếu ấy có thể sẽ khó bán hơn. Cô sẽ cần làm việc với người môi giới để….
-Người môi giới? Tôi không thực sự có thêm một người môi giới nào cả. Nhớ? Tôi đã sa thải ông ta một thời gian trước rồi. Bây giờ, tôi tự làm mọi thứ qua mạng.

-Giao dịch trên mạng cũng tốt, nhưng trong những thời điểm như thế này, cô thực sự cần một nhà môi giới để giúp cô tiến hành mua bán, đặc biệt trong tình trạng thị trường cổ phiếu đầy mạo hiểm và đặc biệt là với những cổ phiếu có giá trị thanh khoản thấp. Với rất nhiều thị trường chứng khoán, cô có thể sẽ cần phải đặt ra một mức giá giới hạn, mức thấp nhất và mà sẽ chấp nhận bán chúng.” Những thị trường chứng khoán như vậy, những người môi giới sẽ có thể giúp cô. Đừng chỉ để họ khuyên rằng đừng bán hoặc khuyên cô bán với mức giá quá cao, cô sẽ không bao giờ thoát ra được.


Liệu thị trường đang ở phương thức tập hợp?

Trở lại vấn đề trước, “Liệu ta vẫn đang trong thị trường suy thoái?” (trang 67). Trình duyệt web chỉ ra Yahoo Page biểu thị biểu đồ S&P với những chỉ số của nó (dòng xanh da trời) và mức thay đổi trung bình. (Nếu không phải, đơn giản 5 bước chỉ dẫn trong hộp). Làm theo:

1. Hai dòng bên dưới biểu đồ, nhìn dòng chữ “ Rang : 1d 5d 3m…” v..v. Ấn vào “3m”

2. Bạn sẽ thấy biểu đồ mới biểu thị chỉ số S&P 500 trong 3 tháng gần đây, nhìn vào đoạn bắt đầu : Moving Avg: 5| 10|20” ấn vào “20”

3. Biểu thị trên màn hình tương tự như biểu đồ, nhưng lần này có thêm một dòng màu đen biểu diễn mức thay đổi trung bình trong 20 ngày của chỉ số S&P 500. Tự hỏi bạn xem dòng nào cao hơn, dòng xanh da trời hay dòng đen

-Nếu dòng đen cao hơn, đó là tín hiệu nói Không, thị trường không ở phương thức tập hợp. Hãy gọi cho người môi giới và bán một nửa số cổ phần. Để số tiền thu được vào quỹ.”

-Nếu dòng màu đen thấp hơn, đó là tín hiệu thị trường đang ở phương thức tập hợp. Gọi người môi giới và bán toàn bộ cổ phần trong thị trường. Để số tiền thu được vào quỹ”.

Chú ý: Đưa cho người môi giới của bạn cơ hội để cung cấp đầu vào liên quan đến việc đặt giới hạn giá chính đáng cho các cổ phiếu ít được giao dịch hay các cổ phiếu buôn bán thất thường. (Giới hạn giá là giá thấp nhất bạn chấp nhận bán cổ phần). Tùy từng tình huống, người môi giới có thể đưa ra các mức giá cao hơn hoặc thấp hơn giới hạn giá. Cung cấp giới hạn giá không thay đổi, trong khoảng 5% từ giá của các giao dịch, có thể có lý do. Tuy nhiên hãy làm rõ với người môi giới, mặc dù bạn rất linh hoạt về thời gian và mức giá, nhưng bạn sẽ không trượt khỏi mục tiêu cơ bản của minh đó là bán càng nhanh càng tốt hay bán sớm khi thị trường có dấu hiệu cho phép.
Để thuận tiện cho lần sau, bổ sung trang web này vào mục Yêu thích của ban.

Khi Linda về nhà và kể lại nội dung chính của cuộc họp với chồng, chồng cô có vẻ hài lòng. Anh nói rằng anh không bao giờ tin tưởng người môi giới của vợ. Gia đình anh ta, ông bà anh ta đã nói với anh rằng không bao giờ tin vào những nhà môi giới, những người làm ngân hàng hay bất kỳ ai làm tài chính – giá. Anh ta cảm thấy khá hơn về chàng trai mới này nhưng Linda vẫn bị sốc.
-Em không tin Dubois lại nói dối chúng ta!”
-Anh đáp lại một cách không thoải mái. “Còn ai nữa đang nói dối chúng ta và họ đang nói dối điều gì?”
Về Đầu Trang Go down
quick_ct
..::Super Moderator::..
..::Super Moderator::..
quick_ct


Tổng số bài gửi : 151
Join date : 27/01/2010
Tuổi : 32
Đến từ : BG

"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống EmptyFri Jan 29, 2010 1:43 pm

tam thoi` 6 chuong thoi nhe' !!!!!
:D
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống   "Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" -  Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống Empty

Về Đầu Trang Go down
 
"Crash Profits - Make Money When Stocks Sink and Soar !" - Kiếm tiền khi chứng khoán lên và xuống
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Nhập môn Chứng khoán
» Sinh viên Học viện Tài chính và chương trình "Rung chuông vàng"

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn của lớp CQ47/01.02 :: Học Tập :: Thư viện-
Chuyển đến